Các Nghiên Cứu Về Nông Nghiệp, Nông Dân, Nông Thôn Và Xây Dựng Nông Thôn Mới Ở Tỉnh Bắc Giang


Vũ Văn Phúc (Chủ biên) khẳng định: “Vĩnh Phúc xác định “tam nông” có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung, mỗi địa phương nói riêng” [59, tr. 451]. Ngay từ năm 2006, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU “Về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống Nhân dân giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020”. Tác giả khẳng định, đến năm 2012 Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, được Nhân dân phấn khởi đón nhận nên đã giành được nhiều kết quả, thành tựu trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, với nhiều kết quả đạt được tác giả cũng nêu những hạn chế trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Tỉnh. Từ kết quả và hạn chế tác giả đúc rút 6 kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng NTM của tỉnh Vĩnh Phúc.

Phạm Đức Kiên, Nguyễn Thị Nguyệt Ánh (2015), Xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Hưng Yên - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [48], với dung lượng 326 trang, kết cấu 5 chương, tác giả đi từ những vấn đề chung; một số vấn đề lý luận, thực tiễn về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam; tác giả đưa ra quan niệm về nông thôn, quan niệm về NTM nguyên tắc và nội dung xây dựng NTM trên cơ sở Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4 - 6 - 2010 của Thủ tướng Chính phủ. Từ vấn đề xây dựng NTM trên phạm vi cả nước, bằng các nghị quyết, kế hoạch, chỉ thị, quyết định của Tỉnh, tác giả xây dựng bức tranh hoàn chỉnh về quá trình xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Hưng Yên với những kết quả nổi bật và hạn chế. Qua đó, cuốn sách nêu giải pháp đẩy mạnh xây dựng NTM ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.

Ngô Thị Lan Hương (2016), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng bền vững từ năm 2001 đến năm 2013 [44]. Luận án tiến sĩ Lịch sử đã khẳng định: Trong những năm 2001 - 2013, Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được Đảng bộ thành phố chú trọng, định hướng phát triển nông nghiệp bền vững đã được khởi động, khuyến khích phát triển nhằm xây dựng một nền nông nghiệp mới, tạo bộ mặt NTM. Tuy đã đạt được những thành tựu bước đầu nhưng nông nghiệp Hà Nội đang phải đối


mặt với những thách thức to lớn. Luận án làm rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội trong quá trình vận dụng chủ trương của Đảng về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững vào thực tế của Thủ đô. Khẳng định thành tựu, hạn chế và đúc kết một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của Đảng bộ thành phố Hà Nội.

Nguyễn Thị Hải Yến (2018), Phát triển nông nghiệp Nghệ An theo hướng hiện đại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế [207], tác giả khẳng định, ngành nông nghiệp Nghệ An đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định. Tuy nhiên, nông nghiệp Nghệ An vẫn có những hạn chế. Từ những nhận định, đánh giá thực trạng, luận án đề xuất định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển nông nghiệp Nghệ An theo hướng hiện đại trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Nguyễn Trần Minh Trí (2018), “Thành công và bài học về xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội” [97] sau hơn 10 năm (2006 - 2016), quán triệt nghiêm túc, tập trung chỉ đạo thực hiện tích cực, quyết liệt các Chương trình của Thành ủy Hà Nội khóa XV và XVI về phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM, nâng cao đời sống nông dân, công tác phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM có bước phát triển toàn diện, đạt được những thành tựu nổi bật. Tính đến hết năm 2017 có “100% số xã hoàn thành các tiêu chí về quy hoạch; 95% xã đạt tiêu chí giao thông, 97% đạt tiêu chí thủy lợi...” [97, tr. 91]. Từ những kết quả đáng ghi nhận sau hơn 10 năm thực hiện các Chương trình tác giả rút ra ba bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo.

1.1.2.3. Các nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang

Vũ Đức Trung (1996), Những định hướng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tỉnh Hà Bắc [98]. Từ vị trí, vai trò phát triển nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận chủ yếu về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Bắc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.


(tỉnh Hà Bắc trước đây gồm 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh). Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hà Bắc và sự phát triển kinh tế nông nghiệp Hà Bắc. Luận án đưa ra định hướng và những giải pháp chủ yếu cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tỉnh Hà Bắc.

Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2010 đến năm 2020 - 3

Trần Sỹ Thanh (2014), “Bắc Giang xây dựng nông thôn mới thực trạng và những vấn đề đặt ra” [70]. Sau thời gian triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, diện mạo nông thôn ở hầu hết các xã thuộc tỉnh Bắc Giang đã có nhiều khởi sắc. Bên cạnh những thành tựu đạt được, tác giả bài viết cũng chỉ rõ những hạn chế và những vấn đề đặt ra để có những chỉ đạo phù hợp “vì một nông thôn mới Bắc Giang có hình thức và nội dung tương thích và bền vững” [70, tr. 98].

Đỗ Đức Hà (2014), “Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang” [29] đã khẳng định xây dựng NTM là nội dung quan trọng trong chính sách “tam nông”, có ý nghĩa hết sức to lớn, nhất là đối với tỉnh Bắc Giang, Tỉnh có “trên 90% cư dân sống ở nông thôn, diện tích đất nông nghiệp chiếm 32,4%, đất lâm nghiệp chiếm 28,9%, lao động trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản chiếm trên 68% lao động của Tỉnh” [29, tr. 99]. Để xây dựng NTM, tỉnh Bắc Giang xác định nhân tố quan trọng hàng đầu là phát huy mạnh mẽ vai trò của tổ chức đảng, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đây là bài học có giá trị của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong xây dựng NTM.

Trần Văn Khái (2014), “Xây dựng thương hiệu sản phẩm một nội dung quan trọng trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang” [46] đã khẳng định những thành công bước đầu của tỉnh Bắc Giang xây dựng được những thương hiệu sản phẩm nông nhiệp. Theo đó, tác giả đưa ra sáu kinh nghiệm quý báu cho việc bảo vệ và phát triển thương hiệu bền vững nhằm tiếp tục xây dựng và phát huy thế mạnh các loại sản phẩm nông nghiệp, đặc


sản có thương hiệu, cung cấp ngày càng nhiều, bền vững cho thị trường trong nước và quốc tế những sản phẩm có chất lượng cao.

Trần Thị Thúy (2016), “Xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2011 - 2015” [73] khẳng định xây dựng NTM là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Sau 5 năm triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả. Bên cạnh đó còn một số hạn chế, đồng thời bài viết chỉ ra để nâng cao chất lượng trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang cần tiếp tục tuyên truyền về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong phát triển KT - XH; xác định xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và cả HTCT, trong đó người dân là chủ thể trực tiếp.

Thân Thị Huyền (2018), Phát triển nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Giang [42], đã phân tích, đánh giá được những tiềm năng cũng như những thách thức của các yếu tố tác động đến phát triển và phân bố nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang. Qua đó, đánh giá thực trạng phát triển và phân bố nông nghiệp ở Bắc Giang; đề xuất các giải pháp về chính sách, khoa học kỹ thuật, vốn, thị trường, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực, liên kết sản xuất, xây dựng và quảng bá thương hiệu nông sản, xây dựng chỉ dẫn địa lí nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trong quá trình xây dựng NTM hợp lý, hiệu quả thời gian tới.

Bùi Văn Hải (2019), “Tỉnh Bắc Giang: Phát huy vai các tổ chức chính trị - xã hội trong vận động Nhân dân xây dựng nông thôn mới” [31]. Bài viết khẳng định: Xây dựng NTM là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, thực sự trở thành phong trào cách mạng mạnh mẽ, rộng khắp được cả HTCT và các tầng lớp Nhân dân tỉnh Bắc Giang nhiệt tình hưởng ứng, tích cực tham gia, trong đó có vai trò quan trọng của các tổ chức chính trị - xã hội trong Tỉnh, với nhiều nội dung phong phú, đa dạng, thiết thực. Nhiều phong trào, cuộc


vận động như: Phong trào “cứng hóa giao thông nông thôn”; Phong trào “giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường nông thôn”; Phong trào “vận động nông dân dồn điền, đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu, sản xuất nông nghiệp sạch, an toàn”; Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”… “có bước phát triển mới, chất lượng được nâng lên và ngày càng thiết thực và hiệu quả, có sức lan tỏa lớn, thu hút người dân tham gia” [31, tr. 47] trong đó vai trò nòng cốt là các tổ chức chính trị - xã hội. Bên cạnh kết quả đạt được từ các phong trào, bài viết đánh giá quá trình tham gia xây dựng NTM của các tổ chức chính trị - xã hội các cấp của Tỉnh cũng bộc lộ những hạn chế. Đồng thời, nhấn mạnh trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong vận động Nhân dân xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, bài viết đưa ra 6 mục tiêu, nhiệm vụ.

1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết

1.2.1. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận án

Về tư liệu

Các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng NTM khá phong phú về thể loại, bao gồm: Sách, bài báo, tạp chí, báo cáo khoa học, luận án tiến sĩ, thể hiện sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước được khai thác, tiếp cận dưới nhiều góc độ, phạm vi, không gian, thời gian khác nhau. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã cung cấp cho nghiên cứu sinh những tư liệu quan trọng liên quan đến xây dựng NTM để nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng vào xây dựng luận án của mình.

Về cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng NTM được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như Kinh tế, Chính trị,


Địa lý... và sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, lôgíc... Sự đa dạng trong phương pháp tiếp cận với nhiều mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau đã cung cấp cho nghiên cứu sinh kiến thức khá toàn diện về xây dựng NTM, giúp nghiên cứu sinh có cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu đa dạng hơn, với phương pháp phân tích, luận giải về xây dựng NTM trong mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực khác của đời sống nông thôn. Tuy vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu về NTM được luận giải dưới góc độ kinh tế - chính trị học, xã hội học, địa lý chính trị. Một số công trình đề cập đến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng NTM, song còn ít, chủ yếu mang tính chất khái quát và chưa có tính hệ thống.

Về nội dung

Các công trình khoa học được công bố đã làm rõ những vấn đề cơ bản sau:

Một là, luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng NTM.

Các công trình nghiên cứu đã luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về NTM: Khái niệm, vị trí, vai trò, đặc trưng, các tiêu chí xây dựng NTM... Một số công trình đã làm rõ thêm lịch sử hình thành và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và quan niệm về xây dựng NTM trên thế giới cũng như Việt Nam. Một số công trình khác làm rõ về vị trí, vai trò, những vấn đề lý luận thực tiễn và tác động của xây dựng NTM đối với sự phát triển KT - XH của cư dân nông thôn, bảo vệ môi trường, củng cố tăng cương quốc phòng, an ninh.

Hai là, làm rõ yêu cầu khách quan xây dựng NTM ở Việt Nam trong tiến trình CNH, HĐH đất nước.

Với nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác giả đã luận giải sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn, tính tất yếu khách quan về xây dựng NTM ở Việt Nam. Vì vậy, đây là nguồn tư liệu quý, trực tiếp cung cấp cho tác giả


những tiền đề lý luận và cơ sở thực tiễn đúng đắn trong nhận thức về xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, giúp phát triển tư duy hệ thống, toàn diện và biện chứng trong nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng NTM từ năm 2010 đến năm 2020.

Ba là, đánh giá thực trạng xây dựng NTM, từ đó đúc rút kinh nghiệm, đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng NTM trên phạm vi cả nước và một số vùng miền, một số địa phương.

Dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các công trình đã làm nổi bật tác động tích cực của xây dựng NTM đến đời sống KT - XH, bảo vệ môi trường, xây dựng HTCT và củng cố tăng cường quốc phòng, an ninh ở Việt Nam. Một số công trình đã khảo sát, đánh giá làm rõ kết quả về công tác quy hoạch, phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH, xây dựng cơ sở vật chất văn hóa và những tác động tích cực về KT - XH từ việc xây dựng NTM với hệ thống số liệu đa dạng, tin cậy và có tính thuyết phục cao. Đồng thời, hầu hết các công trình đều có điểm tương đồng đánh giá hạn chế trong quá trình xây dựng NTM ở Việt Nam là: Chất lượng công tác quy hoạch chưa cao, cơ sở hạ tầng nông thôn chưa đồng bộ, tỷ lệ các xã đạt chuẩn còn hạn chế, nhiều tiêu chí xây dựng NTM khó có khả năng hoàn thành, còn những khó khăn cần tháo gỡ... Trên cơ sở đó, đề xuất nhiều giải pháp, kinh nghiệm nâng cao tính đồng bộ, có tính khả thi cao nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng NTM ở Việt Nam.

Những công trình nghiên cứu về xây dựng NTM ở các địa phương cơ sở tiếp tục khẳng định yêu cầu khách quan và vai trò quan trọng của xây dựng NTM với quá trình phát triển KT - XH ở mỗi địa phương. Đồng thời, khắc họa bức tranh khá đa dạng về thực trạng xây dựng NTM với những định hướng, mô hình phát triển mang tính đặc trưng phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Qua đó, gợi mở cho nghiên cứu sinh thấy rõ xây dựng NTM là hướng đi chiến lược, đã và đang thực hiện mang lại hiệu


quả KT - XH ở tất cả các khu vực địa lý, trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Những thành tựu, hạn chế và giải pháp, kinh nghiệm về xây dựng NTM ở các địa phương là những tư liệu quan trọng để nghiên cứu sinh có cái nhìn tổng thể, đa chiều về xây dựng NTM ở Việt Nam.

Bốn là, khái lược chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, cũng như hoạt động lãnh đạo của một số đảng bộ cơ sở về xây dựng NTM.

Một số công trình bước đầu đã đề cập đến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng NTM. Các công trình khái lược nội dung văn kiện và những văn bản mang tính chất chỉ đạo của Chính phủ cũng như các bộ ngành liên quan về xây dựng NTM. Những vấn đề trên chỉ dẫn nghiên cứu sinh phương pháp tiếp cận nội dung văn bản mang tính chất chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận chủ yếu ở các ngành kinh tế, xã hội học nên các công trình chỉ mới dừng lại ở góc độ khái lược, giới thiệu văn kiện và định hướng nội dung, biện pháp thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng NTM ở Việt Nam.

Một số công trình nghiên cứu phản ánh hoạt động lãnh đạo của các đảng bộ ở địa phương về xây dựng NTM; phân tích, luận giải khá thuyết phục sự mạnh dạn, sáng tạo của các địa phương trong hoạch định chủ trương, xác định mô hình xây dựng NTM phù hợp với thực tiễn của địa phương và xu thế chung của cả nước. Đây là nguồn tài liệu rất bổ ích đối với nghiên cứu sinh nhất là trong so sánh, đánh giá về chủ trương chính sách xây dựng NTM của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang với các đảng bộ ở các địa phương khác trong cả nước.

Năm là, khái lược tiềm năng, thực trạng và giải pháp xây dựng NTM ở Bắc Giang.

Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau, một số công trình đã phân tích làm nổi bật đặc điểm tự nhiên, KT - XH, tạo ra những điều kiện thuận lợi và cả những khó khăn trong quá trình xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Giang. Trong đó, cơ cấu hành chính, dân cư, đất đai, lao động cho thấy Bắc Giang là địa phương với đặc điểm nổi bật là kinh tế nông nghiệp, cư dân nông thôn và xã hội nông thôn.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/04/2023