diện tích nuôi thủy sản 11.900ha, sản lượng đạt 20.000 tấn; tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 48,7%. Kinh tế trang trại phát triển mạnh, có nhiều mô hình cho thu nhập cao, an ninh lương thực được đảm bảo.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề, dịch vụ nông thôn được khôi phục và phát triển, “toàn Tỉnh có gần 15 ngàn hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 435 làng có nghề; trong đó có 33 làng nghề đạt tiêu chí làng nghề theo quy định” [82, tr. 18]; tạo việc làm trên 2,1 vạn hộ gia đình. Các thành phần kinh tế được tạo điều kiện phát triển; đã có thêm 2.549 trang trại so với năm 2001, đã xuất hiện một số mô hình chăn nuôi bán công nghiệp và công nghiệp; các HTX nông nghiệp được chuyển đổi và hoạt động có hiệu quả hơn; đến năm 2010 cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp; công nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ sản đang có chiều hướng phát triển mạnh.
Kết cấu hạ tầng KT - XH ở nông thôn được tăng cường: Cơ sở hạ tầng về thuỷ lợi, giao thông, y tế, giáo dục, bưu chính viễn thông và các công trình văn hóa xã hội khác được đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới... bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi; đời sống vật chất và tinh thần của nông dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả khá, “tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30,67% năm 2005 xuống còn 10% năm 2010” [82, tr. 26], tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn tăng từ 82% lên 87%. HTCT ở nông thôn được củng cố và tăng cường, an ninh chính trị được giữ vững.
Bên cạnh những thành tựu, trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2010, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh Bắc Giang vẫn còn những hạn chế:
Một là, cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa hợp lý. Trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là trồng trọt; tỷ lệ giá trị của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp chưa cao; giá trị dịch vụ nông nghiệp, nông thôn nhỏ bé. Diện tích đất lâm nghiệp lớn nhưng đóng góp của ngành lâm nghiệp vào tăng trưởng kinh tế của địa phương còn rất nhỏ.
Hai là, ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, không phù hợp với yêu cầu của việc sản xuất hàng hoá lớn, tập trung. Hầu hết các khâu sản xuất đều làm thủ công, dẫn đến năng suất lao động ở nông thôn rất thấp. Nguy cơ phát sinh các dịch bệnh còn cao.
Ba là, tình trạng sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng không đúng quy trình kỹ thuật đã dẫn đến ô nhiễm môi trường, không đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm; khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá thấp.
Bốn là, quá trình cơ giới hoá nông nghiệp và việc áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất tiên tiến còn diễn ra chậm, chưa tạo bước đột phá trong phát triển; chưa gắn kết giữa đơn vị chế biến với việc hình thành các vùng nguyên liệu.
Có thể bạn quan tâm!
- Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2010 đến năm 2020 - 2
- Các Nghiên Cứu Về Nông Nghiệp, Nông Dân, Nông Thôn Và Xây Dựng Nông Thôn Mới Ở Tỉnh Bắc Giang
- Những Yếu Tố Tác Động Và Chủ Trương Của Đảng Bộ Tỉnh Bắc Giang Về Xây Dựng Nông Thôn Mới
- Đảng Bộ Tỉnh Bắc Giang Chỉ Đạo Xây Dựng Nông Thôn Mới
- Công Tác Tuyên Truyền, Tổ Chức Các Phong Trào Thi Đua
- Chuyển Đổi Mô Hình, Phát Triển Các Hình Thức Tổ Chức Sản Xuất Ở Nông Thôn
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
Năm là, kết cấu hạ tầng nông thôn tuy được tăng cường song chất lượng còn thấp, thiếu đồng bộ. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch; chất lượng lưới điện, đường giao thông nông thôn, hệ thống trạm bơm và kênh mương xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa được đầu tư sửa chữa kịp thời. Đời sống vật chất tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, nhất là ở vùng núi, vùng ngoài đê; tỷ lệ hộ nghèo cao; tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo còn thấp.
Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên là do: Một số cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, ban, ngành chưa tích cực, chủ động trong việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Một bộ phận nông dân vẫn còn tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước; chưa thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân chưa đồng bộ, thiếu tính đột phá; tỷ lệ đầu tư ngân sách cho nông nghiệp, nông thôn còn thấp.
Từ thành tựu và hạn chế nêu trên, vấn đề cấp thiết đặt ra đối với Đảng bộ tỉnh Bắc Giang là phải đổi mới tư duy về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, tạo bước đột phá trong cách nghĩ, cách làm của cấp ủy, chính quyền, trong xây dựng NTM, làm chuyển biến mạnh mẽ bộ mặt nông thôn tỉnh Bắc Giang, đáp ứng yêu cầu sự phát triển.
2.1.1.3. Tình hình thế giới, trong nước và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới (2011 - 2015)
Tình hình thế giới, khu vực và trong nước
Thế giới: Đại hội XI (01 - 2011) của Đảng khẳng định: “Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường” [23, tr. 27]. Cụ thể: Trong thập niên tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên... buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, thế giới bước vào giai đoạn phát triển mới.
Khu vực: Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn mở ra cơ hội phát triển mỗi nước. Tuy vậy, khu vực này vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, tài nguyên... Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: Chính trị - an ninh, kinh tế, văn hoá - xã hội. Hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. ASEAN đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong một cấu trúc khu vực đang định hình nhưng cũng đang phải đối phó với những thách thức mới. Tình hình thế giới, khu vực phức tạp, khó lường cùng với những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế là thách thức không nhỏ cho sự phát triển KT - XH nói chung và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói riêng, trong đó có Việt Nam.
Trong nước: Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới tiếp tục tạo tiền đề quan trọng để phát triển đất nước với những mục tiêu cao hơn. Đại hội lần thứ XI của Đảng (01 - 2011) khẳng định: “Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước” [23, tr. 184]. Giai đoạn 2011 - 2015 là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực KT - XH, xây dựng Đảng và HTCT. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thách thức to lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng” [23, tr. 185]. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ.
Tình hình thế giới, khu vực và trong nước nêu trên đã tác động đến xây dựng NTM của cả nước nói chung, tỉnh Bắc Giang nói riêng. Toàn cầu hóa và xu thế hợp tác khu vực cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ cũng như thành tựu của 25 năm đổi mới tạo ra thời cơ, thuận lợi mới cho xây dựng NTM Bắc Giang. Tuy nhiên, trước những bất lợi của thiên tai, diễn biến bất thường của dịch bệnh, khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới cùng với những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực KT - XH của đất nước chưa được khắc phục làm cản trở đến quá trình xây dựng NTM của cả nước cũng như ở tỉnh Bắc Giang những năm 2010 - 2015.
Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng NTM
Chủ trương của Đảng: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng xác định: “Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực
hiện chương trình xây dựng NTM. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh” [21, tr. 90]. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội X, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X (5 - 8 - 2008), Đảng ra Nghị quyết 26-NQ/TW đã nêu một cách toàn diện về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [7, tr. 48]; là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển KT - XH bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Nghị quyết 26/NQ-TW nhấn mạnh: Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng NTM gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng NTM. Về xây dựng NTM được Đảng khẳng định: “Xây dựng NTM là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn với nông nghiệp phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch” [22, tr. 2]. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của cư dân nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ NTM.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển KT - XH của đất nước. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ: “Triển khai chương trình xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của nông thôn Việt Nam” [23, tr. 123].
Chương trình MTQG về xây dựng NTM của Chính phủ: Nhằm đưa chủ trương của Đảng về xây dựng NTM vào cuộc sống, trong những năm 2010 - 2015, Chính phủ ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như: Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4 - 6 - 2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Chương trình MTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020. Theo đó, mục tiêu: “Đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới; đến năm 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới” [3, tr. 11]; đồng thời khẳng định Chương trình MTQG xây dựng NTM là chương trình tổng thể về phát triển KT - XH, chính trị, an ninh quốc phòng bao gồm 11 nội dung nhằm thực hiện 19 tiêu chí về NTM. Nhằm hỗ trợ các địa phương hoàn thành tiêu chí về xây dựng NTM phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương, ngày 21 - 3 - 2013 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
498/QĐ-TTg Bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng NTM là căn cứ quan trọng để các địa phương trong cả nước, trong đó có Đảng bộ tỉnh Bắc Giang quán triệt, cụ thể hóa thành chủ trương lãnh đạo thực hiện Chương trình MTQG về xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương.
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về xây dựng nông thôn mới (2010 - 2015)
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVII (10 - 2010) xác định: “Thực hiện tốt Chương trình MTQG về xây dựng NTM. Tiến hành quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH ở nông thôn đồng bộ theo hướng chuẩn NTM” [101, tr. 48].
Cụ thể hóa chủ trương Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVII, Nghị quyết số 145-NQ/TU ngày 14 - 7 - 2011 của Tỉnh ủy Bắc Giang Về xây dựng NTM tỉnh Bắc Giang đến năm 2020 đã đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng NTM như sau:
2.1.2.1. Quan điểm
Một là, “xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả HTCT” [83, tr. 2].
Quan điểm trên thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về xây dựng NTM, là sự quán triệt sâu sắc Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, phù hợp với đặc điểm của địa phương. Nông thôn Bắc Giang là khu vực rộng lớn và đông dân nhất (chiếm 90,4%), là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của cộng đồng, là nơi sản xuất quan trọng, làm ra các sản phẩm cần thiết cho cuộc sống con người. Chính vì vậy, xây dựng NTM được Đảng bộ tỉnh Bắc Giang xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả HTCT.
Đồng thời, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang yêu cầu cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội từ tỉnh đến cơ sở phải vào cuộc một cách quyết liệt, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. Từng cơ
quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng bộ và Nhân dân trong việc triển khai thực hiện xây dựng NTM.
Hai là, “xây dựng NTM được triển khai có kế hoạch, tập trung, triển khai đến đâu hoàn thành dứt điểm đến đó” [83, tr. 3].
Xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả nước cũng như của tỉnh Bắc Giang. Để thực hiện thắng lợi các chương trình, mục tiêu đề ra là một quá trình không dễ thực hiện, nhất là với tiềm lực và điều kiện hiện có của tỉnh Bắc Giang. Chính vì vậy, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang xác định: Xây dựng NTM được triển khai có kế hoạch, tập trung, triển khai đến đâu hoàn thành dứt điểm đến đó.
Ba là, “phát huy nội lực của cộng đồng dân cư là chính, chủ thể là các nông hộ, lấy địa bàn xã là đơn vị xây dựng NTM” [83, tr. 3].
Xây dựng NTM là quá trình liên tục, lâu dài, có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc. Do đó phải làm chuyển biến cơ bản nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về xây dựng NTM. Đây chính là sự nghiệp của dân, do người dân làm chủ thể xây dựng, Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ để nâng cao tinh thần tự giác thực hiện. Xác định rõ vai trò chủ thể phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong xã hội để người dân hiểu và đóng góp sức người, sức của trong xây dựng NTM. Các nội dung hoạt động xây dựng NTM phải được người dân bàn bạc dân chủ, công khai để quyết định và tổ chức thực hiện. Các cấp, các ngành đóng vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, có cơ chế, chính sách hỗ trợ.
2.1.2.2. Mục tiêu
Dựa trên những lợi thế của địa phương Đảng bộ tỉnh Bắc Giang xác định mục tiêu chung: “Xây dựng nông thôn tỉnh Bắc Giang có kết cấu hạ tầng KT - XH từng bước hiện đại” [83, tr. 3]; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với phát triển đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an