Ý Kiến Của Nlđ Và Nsdlđ Về Tăng Tuổi Nghỉ Hưu



+ Thực hiện chi trả trực tiếp cho người lao động ở các đơn vị sử dụng lao

động qua tài khoản thanh toán cá nhân.

- Quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí chi trả: Quản lý chặt chẽ, khoa học các biến động về tăng, giảm đối tượng hưởng trợ cấp BHXH. Đối với các biến động tăng thì phải cập nhật hàng tháng tại cơ quan BHXH. Đối với các biến động giảm thì phải từ cơ sở báo lên. Riêng đối với đối tượng hưởng trợ cấp mất sức lao động, cần phải quản lý chặt chẽ các biến động tăng, giảm của nhóm đối tượng này, bới vì nhóm đối tượng này được chia thành nhiều nhóm, dài hạn, có thời hạn, hoặc tiếp tục hưởng theo quy định. Muốn vậy, phải rà soát hồ sơ, phân loại danh sách đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động và trợ cấp hàng tháng theo thời gian ngừng trợ cấp. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch cắt, giảm và thông báo hàng quý cho những người sắp hết hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động và thông báo hàng năm đối với trẻ em hưởng tuất đủ 15 tuổi trở lên đang đi học về thời gian hưởng còn lại trước khi cắt chế độ.

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức chi trả các chế độ BHXH, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHXH khi nhận trợ cấp BHXH nhằm khuyến khích NLĐ tham gia BHXH tự nguyện. Cần mở rộng các hình thức chi trả BHXH.

- Đối với hình thức chi trả trực tiếp, chỉ nên áp dụng ở một số địa phương có

điều kiện thuận lợi như: địa bàn dân cư tập trung, đối tượng nhiều, số tiền lớn.

- Đối với hình thức chi trả gián tiếp, bên cạnh hình thức chi trả thông qua các tổ chức chi trả cấp xã, phường, các đại lý chi trả. Hiện nay cơ quan BHXH đã áp dụng việc chi trả các chế độ BHXH thông qua tài khoản cá nhân, thẻ ATM, thông qua bưu điện. Song việc thực hiện phương thức này mới chỉ được áp dụng ở các thành phố lớn. Trong thời gian tới BHXH nên sử dụng rộng rãi các hình thức chi trả này. Để thực hiện tốt điều này cần có sự phối hợp tốt giữa BHXH với hệ thống ngân hàng, kho bạc, bưu điện các địa phương và vận động đối tượng thu hưởng mở tài khoản cá nhân.

- Phương thức chi trả theo hình thức phối hợp giữa huyện và xã. Ngoài hai hình thức chi trả trên. BHXH Việt Nam nên tập trung chi đạo BHXH các tỉnh đồng bằng và trung du thực hiện phương thức chi trả theo hình thức phối hợp giữa các huyện và xã. Hàng tháng, BHXH các huyện xây dựng lịch chi trả cho các xã và



thông báo cho các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH. Căn cứ vào lịch chi trả này cơ quan BHXH trực tiếp mang tiền, danh sách chi trả xuống đơn vị và phối hợp với ban đại diện chi trả xã, phường, Ủy ban nhân dân xã để tiến hành chi trả theo lịch. Đối với những đối tượng vắng mặt chưa đến nhận thì giao cho ban đại diện tiếp tục chi trả rồi làm thủ tục để kịp thời thanh toán với BHXH cấp huyện vào thời gian trong tháng hoặc kỳ lương sau.

Theo phương thức này chỉ trong ít ngày sẽ chi trả xong toàn huyện. Công tác thanh toán, báo cáo giữa xã với huyện cũng được tiến hành nhanh gọn hơn, giúp cho việc tổng hợp báo cáo quyết toán của huyện, tỉnh đảm bảo chất lượng và đúng thời gian quy định. Phương thức chi trả này cũng giảm bớt các thành viên của ban chi trả xã, phường góp phần giảm bớt chi phí quản lý quỹ BHXH.

Ba là, ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng chương trình quản lý chi BHXH. Xây dựng phần mềm ứng dụng tin học trong quản lý hồ sơ và chi trả BHXH để:

- Lưu trữ và khai thác thông tin của tất cả đối tượng đang hưởng chế độ BHXH và cả những người đã hết hạn hưởng chế độ BHXH. Xử lý các thông tin khi có biến động tăng, giảm đối tượng hoặc điều chỉnh tăng, giảm trợ cấp khi chế độ chính sách thay đổi.

- Lập danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng cho từng đầu mối chi trả (xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị sử dụng lao động) theo từng đối tượng, theo dõi tình hình cấp phát và thanh toán kinh phí, lập báo cáo và sổ sách theo quy định.

- Quản lý lưu trữ hồ sơ của các đối tượng đã hết hạn hưởng, hết tuổi hưởng, chết hoặc vi phạm pháp luật bị tù.

4.3.3. Thực hiện công bằng đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Thứ nhất, phát triển rộng rãi các loại hình BHXH tự nguyện, đặc biệt là BHXH tự nguyện cho nông dân. Cần phát triển rộng rãi loại hình BHXH tự nguyện để tạo điều kiện cho mọi người dân đều có quyền tham gia BHXH, đặc biệt là đối với những đối tượng BHXH là nông dân. Từ việc xác định nông dân là nhóm đối tượng cần được hưởng những chính sách đặc biệt về BHXH, nhóm đối tượng này cần được tách ra khỏi các đối tượng tham gia loại hình BHXH tự nguyện hiện tại và

vì thế cần xây dựng một mô hình bảo hiểm tự nguyện dành riêng cho họ.



Có thể trước mắt mô hình BHXH tự nguyện cho nông dân Việt Nam chưa thế cung cấp đầy đủ các chế độ BHXH mà tạm thời nên thực hiện hai chế độ là bảo hiểm hưu trí và tử tuất như đối với loại hình BHXH tự nguyện áp dụng chung cho những đối tượng khác, nhưng trong cơ chế đóng góp vào quỹ BHXH cần có thêm sự hỗ trợ của Nhà nước theo một tỷ lệ nhất định. Về lâu dài thì cần nghiên cứu khả năng kết hợp giữa chế độ BHXH của nông dân với các chế độ cứu trợ khác để tăng thêm sự bảo vệ đối với nhóm đối tượng này.

Thứ hai, từng bước cải cách chế độ bảo hiểm hưu trí

Một là, tiếp tục cải cách các quy định về mức đóng và hưởng trợ cấp hưu trí đề đảm bảo công bằng cho đối tượng tham gia.Bên cạnh việc quy định mức hưởng trợ cấp tối đa theo tỷ lệ tiền lương cần quy định khống chế mức hưởng trợ cấp hàng tháng tối đa. Mức được lựa chọn là dưới mức thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân. Quy định này cần được thực hiện đồng bộ với việc khống chế mức hưởng tối đa. Quy định này đảm bảo được tính xã hội của loại hình bảo hiểm này đồng thời quỹ BHXH cũng không phải chi trả những mức bảo hiểm quá cao gây gánh nặng cho quỹ, tạo cơ hội mở rộng phạm vi bao quát đối tượng hơn nữa. Giải pháp này phù hợp với các giải pháp kiểm soát thu nhập đang thực thi hiện nay. Những người có thu nhập cao, có nhu cầu hưởng mức trợ cấp cao thể lựa chọn việc tham gia loại hình BHXH tự nguyện bổ sung hoặc các loại hình bảo hiểm thương mại khác

Hai là,cải cách công thức tính lương hưu. Quy định công thức tính lương hưu áp dụng chung cho cả hai giới nam và nữ là: 20 năm đóng BHXH thì được hưởng 51% mức lương đóng bình quân, sau đó cứ tăng thêm 1 năm thì được cộng thêm 2% mức lương bình quân. Công thức này đảm bảo được công bằng trong đóng góp và hưởng thụ giữa lao động nam và lao động nữ, đồng thời phù hợp với kiến nghị tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. Cũng theo đó, NLĐ học xong đại học 22 tuổi tham gia BHXH (23 năm), nếu về hưu ở tuổi 55 (nữ) được hưởng 57% mức lương bình quân, nếu về hưu ở tuổi 60 được hưởng 67% và nếu có 32 năm đóng BHXH thì tương ứng với mức hưởng cao nhất là 75%. Cách tính này không có sự chênh lệch nhiều so với mức hưởng theo pháp luật hiện hành song khắc phục được hạn chế mất



công bằng và tạo điều kiện khuyến khích NLĐ tích cực làm việc để hưởng mức trợ cấp cao hơn khi về hưu.

Ba là, nghiên cứu lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, cụ thể.

- Điều chỉnh lại quy định độ tuổi nghỉ hưu. Xác định lộ trình tăng dần tuổi nghỉ hưu theo mức tăng của tuổi thọ trung bình. Thực hiện lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu từ năm 2018 cứ 2 năm tăng 1 tuổi cho đến khi đạt 62 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ (từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch tuổi hưu của nam và nữ). Hiện nay tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ được quy định tại khoản 1 Điều 50, tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ làm việc tại khu vực dân sự và lực lượng vũ trang quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 50 Luật lao động. Các quy định này đều có điểm chung là độ tuổi nghỉ hưu giữa các đối tượng chênh nhau 5 tuổi.

Bảng 4.1: Ý kiến của NLĐ và NSDLĐ về tăng tuổi nghỉ hưu



Đối tượng

Nên tăng tuổi nghỉ hưu

Không nên tăng tuổi nghỉ hưu


Không quan tâm

Lao động chân tay

3,12%

84,4%

1,16%

Lao động văn phòng

80,4%

11,62%

7,97%

Lao thuộc thuộc khối hành chính sự nghiệp

85,7

7,14%

7,14%

lao động trong lĩnh vực nghiên cứu- giảng dạy

88,8%

6,7%

4,5%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội Việt Nam - 18

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát

- Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của lao động nữ (hoặc một bộ phận lao động nữ trong một số lĩnh vực) theo hướng tăng dần tuổi nghỉ hưu của họ, cứ 2 năm tăng thêm 1 tuổi (hoặc cứ mỗi năm tăng thêm 1 tuổi) cho tới khi bằng độ tuổi nghỉ hưu của nam,hoặc có thể tăng dần đồng thời tuổi nghỉ hưu của cả lao động nam và lao động nữ, cứ mỗi năm tăng thêm 1 tuổi (hoặc cứ 2 năm tăng thêm 1 tuổi) cho tới khi đạt tới 62 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ.Tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ nhằm đảm bảo bình đẳng với lao động nam trong việc đóng và hưởng BHXH. Về lâu dài



cần tiến tới quy định độ tuổi nghỉ hưu chung của lao động nam và nữ bằng nhau. Đây cũng là xu hướng được đa số các quốc gia thực hiện (phụ lục), tạo cơ hội cho lao động nữ được tiếp tục tham gia quan hệ lao động và đóng góp BHXH.

- Giảm sự chênh lệch tuổi nghỉ hưu giữa 2 khu vực dân sự và lực lượng vũ trang theo hướng tuổi nghỉ hưu của một số trường hợp thuộc lực lượng vũ trang được điều chỉnh tăng dần (có thể có luật riêng điều chỉnh cho người làm việc ở khu vực này).

Song song với việc tăng dần tuổi nghỉ hưu cần khuyến khích NLĐ và NSDLĐ tham gia quan hệ lao động bằng cách quy định nếu đủ tuổi nghỉ hưu mà các bên vẫn tiếp tục quan hệ lao động mà không làm thủ tục hưởng bảo hiểm hưu trí thì cả hai bên không phải đóng phí BHXH dài hạn. Trong trường hợp này vừa đáp ứng được nhu cầu và khuyến khích được việc tiếp tục tham gia quan hệ lao động, đồng thời quỹ BHXH cũng lùi được thời hạn chi trả trợ cấp hưu trí, giảm tải gánh nặng về tài chính.

Bốn là, xây dựng chế độ hưu trí bổ sung nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người nghỉ hưu.

Chế độ hưu trí bổ sung được áp dụng cho những NLĐ đang tham gia loại hình BHXH bắt buộc và họ tự nguyện tham gia thêm chế độ này nhằm có được một mức lương hưu cao hơn khi đủ điều kiện nghỉ hưu. Chế độ này cũng mang lại cho NLĐ có thêm cơ hội lựa chọn để có thể đa dạng hóa các nguồn thu nhập, bổ sung thêm mức lương hưu hàng tháng từ BHXH bắt buộc, góp phần cải thiện đáng kể đời sống của người nghỉ hưu. Kết quả điều tra về nhu cầu của các doanh nghiệp về xây dựng qũy hưu trí bổ sung của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trong năm 2011 cho thấy, với quy mô điều tra 610 doanh nghiệp có 70,33% doanh nghiệp sẵn sang tham gia loại hình này. Đây là nhu cầu thực sự của doanh nghiệp đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực BHXH chủ động nghiên cứu toàn diện về chế độ này để có thể thực thi trong thời gian tới góp phần từng bước cải thiện đời sống của người nghỉ hưu, đáp ứng mục tiêu an sinh xã hội.

Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc cải cách chế độ bảo hiểm hưu trí. Chế độ hưu trí bổ sung ở Việt Nam nên thiết lập trên cơ sở tự nguyện, khuyến khích sự chia sẻ phần đóng góp của NLĐ và NSDLĐ. Phạm vi



áp dụng trước tiên đối với người tham gia BHXH bắt buộc. Trong tương lai khi thiết lập được hệ thống bảo hiểm bao phủ được toàn bộ NLĐ thì tiến tới mở rộng phạm vi áp dụng đối với mọi NLĐ đang tham gia BHXH. Mức đóng góp của chế độ bổ sung được quy định với nhiều mức để người tham gia có quyền lựa chọn phù hợp với thu nhập của mình. Phần đóng góp này được chuyển vào tài khoản cá nhân thuộc sở hữu mỗi NLĐ. Khi nghỉ hưu, các khoản tiền này có thể được rút hàng tháng hoặc hàng năm tùy thuộc vào nhu cầu. Quản lý tài chính được chú trọng với việc đầu tư vốn sinh lời dựa trên các nguyên tắc chung về đảm bảo an toàn quỹ BHXH.

Thứ ba, xây dựng chế tài xử lý các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trốn tránh trách nhiệm BHXH của người sử dụng lao động.

Hiện nay chế tài xử phạt hành vi vi phạm về nộp BHXH còn rất thấp, không đủ sức răn đe doanh nghiệp dây dưa nợ đọng. Theo quy định hiện hành, mức phạt tối đa đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo hiểm của chủ sử dụng lao động không vượt quá 75 triệu đồng, cùng với mức phạt tiền trên, doanh nghiệp vi phạm chỉ phải nộp thêm một khoản lãi chậm đóng được tính bằng lãi suất đầu tư của quỹ BHXH. Mức lãi suất này thậm chí thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng, nên nhiều doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận chịu phạt để chiếm dụng quỹ BHXH thay vì phải đi vay ngân hàng.

Để khắc phục tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH của các chủ sử dụng lao động, đã đến lúc cần có những chế tài đủ mạnh đưa vào Luật BHXH để chấn chỉnh và xử lý tình trạng nợ đọng dây dưa từ phía các DN cũng như buộc các đơn vị sử dụng lao động tự giác tuân thủ các nghĩa vụ BHXH đối với người lao động.

Lãnh đạo BHXH Việt Nam cũng đề xuất Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan nghiên cứu sớm trình Chính phủ ban hành quy định về xử lý tiền nợ BHXH tồn đọng kéo dài, không còn khả năng trả nợ của các DN đã ngừng hoạt động, giải thể, phá sản hoặc chủ lao động bỏ trốn, để tạo hành lang pháp lý giải quyết chế độ BHXH đối với người lao động một cách kịp thời.

4.3.4.Đảm bảo quỹ bảo hiểm xã hội duy trì được sự cân đối, ổn định trong dài hạn.

Để quỹ BHXH đảm bảo duy trì được sự cân đối, ổn định trong dài hạn, ngoài các giải pháp liên quan đến thu, chi quỹ BHXH đã nêu ở trên, BHXH Việt Nam cần



tích cực khai thác nguồn thu từ các khoản viện trợ đóng góp từ các tổ chức trong nước và nước ngoài, mạnh dạn sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi đi đầu tư sinh lời. Đểhoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao,góp phần tăng trưởng cho quỹ BHXH cần phải.

Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội

Đối với BHXH Việt Nam hiện nay, tiền tạm thời nhàn rỗi được đầu tư vào tín phiếu và trái phiếu Chính phủ, cho ngân hàng thương mại của nhà nước vay hoặc đầu tư vào các công trình trọng điểm quốc gia theo chỉ đạo của Chính phủ. Các lĩnh vực đầu tư này mặc dù an toàn nhưng lãi suất sinh lời rất thấp,vì vậy cần phải đa dạng hóa danh mục đầu tư sang các lĩnh vực khác thì lợi nhuận đầu tư sẽ được sẽ cao hơn.

Các khoản cho ngân hàng vay hiện nay đang được thực hiện qua hình thức tiền gửi nên lãi suất không mang tính cạnh tranh so với hình thức đấu thầu, vì vậy cần xây dựng cơ chế đấu thầu rộng rãi cho các khoản vay này. Lãi suất trúng thầu phải cao hơn hoặc bằng mức lãi suất chuẩn mà BHXH Việt Nam đề ra. Như vậy, BHXH Việt Nam cũng sẽ tận dụng được sự linh hoạt trong cơ chế đấu thầu để đầu tư vốn với lãi suất cạnh tranh hơn và thời hạn phù hợp với nhu cầu chi trả của ngành. Mở rộng đối tượng cho vay là các ngân hàng thương mại cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 51% cổ phần, có vốn điều lệ trên 5.000 tỷ đồng. Tóm lại, phải mở rộng các danh mục đầu tư quỹ BHXH sao cho vừa đảm bảo an toàn vừa đảm bảo hiệu và có lợi nhuận

Thứ hai, cơ cấu lại danh mục đầu tư quỹ BHXH

- Cần phân loại đối với các nguồn quỹ BHXH để có cơ sở đầu tư. Đối với nguồn vốn ngắn hạn (dưới 1 năm) nên đầu tư vào cổ phiếu, các loại kỳ phiếu, cho các ngân hàng thương mại vay để hưởng lãi... Đối với nguồn vốn trung hạn (1-5 năm) dành cho đầu tư vào cho vay trực tiếp, cho các ngân hàng vay trung hạn. Đối với nguồn vốn dài hạn (5-10 năm) đầu tư mua các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính quyền địa phương, góp vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh, liên doanh góp vốn vào các ngành khác, chế biến dầu khí, tham gia vào các dự án sản xuất, cung cấp điện nước sinh hoạt cho dân cư, khu công nghiệp, kinh



doanh bất động sản, xây dựng nhà ở, đầu tư vào hạ tầng đô thị, cho chủ sử dụng lao động vay để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, đây là một biện pháp tạo nguồn hay nuôi nguồn mà mang lại hiệu quả cao.

- Về hạn mức cụ thể đầu tư đối với từng lĩnh vực. Nên sử dụng khoảng 85% nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH vào các lĩnh vực đầu tư an toàn như:cho ngân sách nhà nước vay, mua trái phiếu, kỳ phiếu của nhà nước hoặc của các tổ chức tài chính Nhà nước. 15% quỹ BHXH còn lại sẽ đầu tư vào các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao hơn nhưng nhiều rủi ro hơn như:bất động sản, trực tiếp đầu tư vào các dự án kinh doanh.

Bảng 4.2: Gợi ý về danh mục đầu tư từ quỹ BHXH


TT

Danh mục đầu tư

Hình thức

tỷ trọng

Phương thức tính lãi

1

Trái phiếu chính phủ

Trái phiếu kho bạc nhà nước:

+Trái phiếu bán được.

+Trái phiếu không bán được


10%

10%


Coupon trái phiếu (5-10 năm)

Trái phiếu phát hành qua ngân hàng phát triển (Có thể bán

được trên thị trường)

10%

Lãi suất chiết khấu thực tế

2

Cho NSNN vay

khoản cho vay đối với ngân

sách nhà nước

15%

Coupon trái phiếu (5-10

năm)

3

Cho các ngân hàng vay

Gửi tiền vào ngân hàng thương

mại qua cơ chế đấu thầu.

35%

Lãi suất đấu thầu

4

Góp vào vốn các dự án cơ

sở hạ tầng của Nhà nước.

Góp vốn sở hữu ban đầu

5

lãi suất trung bình ngành

+ phần bù rủi ro.

5

Kinh doanh bất động sản

Xây dựng nhà ở

5

lãi suất phù hợp với thị

trường

6

Mua các tài sản trên thị trường tiền tệ

Chứng chỉ tiền gửi tín phiếu kho bạc (Có thể bản được trên thị

trường)

5

Lãi suất liên ngân hàng của NHNN Việt Nam

7

Đầu tư khác

cho chủ sử dụng lao động vay.


lãi suất phù hợp với thị

trường

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát

Đối với nước ta hiện nay và trong thời gian một vài năm tới, không nên dùng quỹ bảo hiểm xã hội để đầu tư ra nước ngoài vì thị trường trong nước đang cần thu hút nhiều vốn, đặc biệt nguồn vốn trong nước. Mặt khác chúng ta đang khuyến

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 25/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí