khích nước ngoài đầu tư vào nước ta, do vậy chỉ nên dùng không quá 10% quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận cao hơn khi đầu tư thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước. Bởi vì thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán mặc dù đã hoạt động nhưng tính ổn định chưa cao, quy mô còn nhỏ và các doanh nghiệp lớn của Nhà nước hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả cũng chưa cao, chưa ổn định.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH như chính sách ưu đãi thuế. Ưu tiên một số lĩnh vực, dự án đầu tư bằng quỹ BHXH mà ở đó vốn đầu tư bảo đảm an toàn, tăng trưởng được vốn như: đầu tư xây dựng nhà ở bán trả chậm cho dân cư (đặc biệt là những người có thu nhập thấp), dự án sản xuất, cung cấp điện, nước sinh hoạt cho các khu dân cư, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có thu phí sử dụng như cầu đường giao thông, các công trình y tế, giáo dục, phúc lợi xã hôi và một số dự án mang tính chiến lược quốc gia.
Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư nhằm đảm bảo sự an toàn và hạn chế những rủi ro trong hoạt động đầu tư. Nội dung của thẩm đinh các dự án đầu tư bao gồm:thẩm định năng lực tài chính của đối tượng vay vốn, quá trình này thực hiện trước khi đầu tư và thẩm định hiệu quả của tiền vốn sau khi đầu tư, quá trình này thực hiện sau khi kết thúc dự án, thu hồi tiền vốn đầu tư.
Tiếp tục củng cố và hoàn thiện bộ máy tổ chức của tổ chức đầu tư quỹ BHXH chuyên nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư quỹ.
Thứ ba, phân cấp, phân quyền trong quyết định đầu tư, trách nhiệm gắn với quyền lợi.
- Đối với các hình thức đầu tư: Cho NSNN vay, cho các ngân hàng thương mại nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển vay; mua kỳ phiếu, trái phiếu, công trái kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước phát hành, giao cho Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quyết định.
- Đối với hình thức đầu tư vốn vào các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc liên doanh góp vốn đầu tư cùng các doanh nghiệp Nhà nước, thẩm quyền quyết định đầu tư được phân cấp như đối với các tổng công ty 91 quy định tại Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính Phủ về việc ban hành quy chế
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Hướng Đảm Bảo Tài Chính Cho Bảo Hiểm Xã Hội
- Hệ Thồng Bảo Hiểm Hưu Trí Đa Tầng (Do Oecd Xây Dựng)
- Ý Kiến Của Nlđ Và Nsdlđ Về Tăng Tuổi Nghỉ Hưu
- Đẩy Mạnh Công Tác Tuyên Truyền, Nâng Cao Nhận Thức Của Người Dân Về Bảo Hiểm Xã Hội.
- Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam (2007), Quyết Toán Ngân Sách Năm 2007
- Số Đối Tượng Hưởng Các Chế Độ Bhxh Thường Xuyên Hàng Tháng Từ 2005 Đến 2011
Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.
quản lý đầu tư xây dựng; Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2000 của Chính phủ về việc sử đối, bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7- 1999 của Chính phủ.
- Đối với hình thức đầu tư qua thị trường chứng khoán để mua cổ phiếu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát hành do Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam quyết định.
Thứ tư, tiếp tục củng cố hoàn thiện bộ máy tổ chức đầu tư quỹ BHXH chuyên nghiệp. Để nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH, cần tiếp tục củng cố hoàn thiện bộ máy tổ chức chuyên trách về đầu tư, tăng trưởng quỹ BHXH. Thành lập một công ty quản lý quỹ dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
4.3.5. Lựa chọn mô hình bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam
Với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay còn nhiều khó khăn, năng suất lao động thấp, NSNN còn hạn hẹp thì mô hình BHXH theo cơ chế thị trường có đóng, có hưởng và có sự tham gia của Nhà nước là mô hình phù hợp đối với nước ta. Trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu để từng bước chuyển dần hệ thống BHXH hiện nay theo cơ chế đóng hưởng với mức hưởng xác định (PAYG- Pay as you go) sang hệ thống BHXH theo chương trình tài khoản cá nhân danh nghĩa dựa trên mức đóng xác định (NDC- Notional Defined contribution) để khắc phục một cách cơ bản sự mất cân đối về tài chính của quỹ BHXH trong dài hạn.
Trong hệ thống cân đối thu, chi theo mức hưởng xác định PAYG, mức độ chi trả không tuân thủ chặt chẽ, luôn tồn tại một thách thức là các cơ quan bảo hiểm nhà nước không thể thu được đầy đủ tiền đóng bảo hiểm. Tình trạng nợ đóng, chiếm dụng tiền đóng của NSDLĐ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ và sự cân đối quỹ trong dài hạn. Mặt khác hệ thống này còn đối mặt với tính không bền vững của quỹ khi dân số đang già đi, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế đang tăng trưởng chậm dần. Để giải quyết vấn đề này nhằm đảm bảo cân đối quỹ, một trong các giải pháp cơ bản là tăng dần mức đóng của NLĐ và NSDLĐ, việc này dẫn đến tác động tiêu cực tới cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và giảm thu nhập của NLĐ. Vì vậy, trong thời gian tới cần nghiên cứu chuyển dần từ hình thức BHXH
theo mức hưởng xác định trước sang hình thức đóng, hưởng với mức đóng xác định. Việc cải cách một cách cơ bản, toàn diện hệ thống cần được nghiên cứu trong dài hạn để có thể khắc phục những thách thức về một cơ cấu dân số ngày càng già hóa và một hệ thống nhiều rủi ro trong tương lai.
Tuy nhiên, khi áp dụng hệ thống này cần lưu ý một số vấn đề sau
- Hệ thống tài khoản cá nhân tượng trưng mang tính chất của một hệ thống có mức hưởng xác định theo mức đóng, về mặt bản chất nó vẫn giống hệ thống PAYG nên vấn đề bất công bằng giữa các thế hệ tham gia BHXH vẫn có thể tồn tại tùy vào cách tính đóng- hưởng. Việc áp dụng hệ thống này cần phải được triển khai dần để giảm thiểu sự bất công bằng này.
-Hệ thống tài khoản cá nhân là hệ thống còn khá mới lạ và khó hiểu đối với người tham gia, thậm chí cả với nhà quản lý hệ thống, vì sự khác biệt của hệ thống này với hệ thống PAYG không nhiều. Do đó, việc thực hiện chuyển đổi hệ thống cần phải được thông tin rõ ràng, đặc biệt trong tính toán mức đóng đã tích lũy và mức hưởng.
-Hệ thống này được thực hiện đòi hỏi phải có hệ thống kế toán hoàn chỉnh nên giai đoạn đầu sẽ tác động lớn đến chi phí nâng cấp hệ thống thông tin, đào tạo các cơ quan liên quan, đặc biệt là cơ quan quản lý thực hiện BHXH.
4.3.6.Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tài chính BHXH với NSNN, tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình vàcác tài chính trung gian.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa tài chính BHXH với NSNN
Thực tế cho thấy, nguồn kinh phí của NSNN hỗ trợ cho quỹ BHXH sẽ giảm dần, nhất là khi đối tượng là người hưởng lương, trợ cấp trước ngày 01/01/1995 giảm đi. Vì thế đây là một giải pháp rất quan trọng đối với hệ thống BHXH.
- NSNN đóng và hỗ trợ. Theo quy định tại Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45CP ngày 07/5/1995 của Chính Phủ thì NSNN đảm bảo chi trả cho những người đang hưởng các chế độ BHXH đến trước thời điểm 01/01/1995. Quỹ BHXH đảm bảo chi trả cho những người hưởng các chế độ BHXH từ ngày 01/01/1995 trở đi. Như vậy trước thời điểm 01/01/1995 có khoảng 2.675998 người đã có thời gian
công tác bình quân 14,3 năm được coi là thời gian tham gia BHXH mà quỹ BHXH không thu được [26,tr 394]. Khi giải quyết các chế độ chính sách BHXH cho số người này thì quỹ BHXH phải chi trả. Ngoài ra, việc thực hiện chế độ BHXH đối với cán bộ phường, xã, thị trấn, trước thời điểm ngày 01/01/1996 có khoảng 204.560 người đã có thời gian công tác bình quân 9,8 năm được coi là thời gian tham gia BHXH mà quỹ BHXH không thu được, nhưng quỹ cũng phải chi trả khi họ được hưởng các chế độ BHXH [26, tr 394]. Chính vì vậy ngân sách nhà nước cần đóng góp vào quỹ BHXH số tiền của các đối tượng trên để giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất.
- Đối với các loại hình BHXH có tính bắt buộc không mang mục đích sinh lời đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của NSNN. Nhà nước là “bà đỡ” hậu thuẫn cho hoạt động BHXH thuộc loại hình này. Khi chính sách của Nhà nước thay đổi thì cần điều chỉnh loại hình BHXH này cho phù hợp. Số tiền nhàn rỗi từ quỹ BHXH bắt buộc có thể dành cho NSNN vay sẽ có hệ số an toàn cao, không nên đầu tư vào thị trường chứng khoán vì có rủi ro cao.
- Đối với loại hình BHXH bắt buộc thuộc khu vực kinh tế Nhà nước mà phần lớn được hình thành từ các nguồn liên quan đến NSNN thì khi có những rủi ro xảy ra đối với quỹ BHXH cần có sự hỗ trợ của NSNN để đảm bảo an sinh xã hội. Vì vậy, quỹ BHXH có liên quan chặt chẽ đến NSNN cho nên phải được Bộ tài chính thay mặt nhà nước quản lý, kiểm tra chặt chẽ. Trên cơ sở đó, chủ tịch hội đồng quản lý quỹ BHXH bắt buộc phải do Bộ trưởng Bộ tài chính đương nhiệm làm chủ tịch.
- Hiện nay với mức lương và thu nhập hàng tháng của cán bộ công chức, viên chức Nhà nước là tương đối thấp, không đủ để có thể đóng BHXH với tỷ lệ cao hơn. Vì vậy, nhà nước có thể lựa chọn hoặc có chính sách hỗ trợ quỹ BHXH bù lỗ cho một số hoạt động của quỹ để đảm bảo cân đối thu - chi quỹ và bảo tồn vốn hoặc cải cách chính sách tiền lương hiện hành, tiền lương tiền công phải trả theo nguyên tắc thị trường, tức là phải đúng với giá trị sức lao động. Theo tác giả lựa chọn phương án cải cách tiền lương là đúng đắn và phù hợp nhất.
- Đối với loại hình BHXH tự nguyện, để đảm bảo tính bền vững của hệ thống BHXH thì nhà nước cần khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện.
Tuy nhiên do thu nhập thấp lại chịu nhiều thiệt thòi so với đối tượng BHXH bắt buộc cho nên các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chưa được nhiều, chính về thế mà khả năng bền vững của hệ thống là chưa cao. Chính vì vậy chính phủ nên có chính sách hỗ trợ ngân sách cho quỹ BHXH tự nguyện
Trong mối quan hệ giữa NSNN với BHXH cũng cần phải xác định rõ vai trò tham gia của Nhà nước. Nhà nước với vai trò là người sử dụng lao động (tham gia BHXH cho người lao động của mình) hay Nhà nước với vai trò là nhà quản lý, điều hành, thực hiện các mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội (xây dựng chính sách, đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng được điều chỉnh bởi chính sách hay Nhà nước với vai trò là người tổ chức thực hiện chính sách.
Khi đứng ở vai trò là người sử dụng lao động thì Nhà nước có thể có những chính sách ưu tiên/ ưu đãi riêng cho nhóm đối tượng là người lao động CBCCVC, LLVT) của mình (được hưởng thụ các chế độ phúc lợi cao hơn).
Khi đứng ở vai trò là người quản lý nhà nước, quản lý xã hội và tổ chức thực hiện chính sách thì cần có sự công bằng và bình đẳng đối với mọi đối tượng thuộc diện điều chỉnh của chính sách.
Vì vậy, hoặc là Nhà nước tổ chức thực hiện riêng hệ thống chính sách đối với CBCCVC, LLVT trong đó bao gồm những ưu đại cho đối tượng này. Hoặc là tổ chức thực hiện chung chính sách như hiện nay, nhưng cần phải xóa bỏ sự phân biệt, đối xử khác nhau giữa các đối tượng chính sách và nếu có thì Nhà nước sẽ phải đảm bảo bằng trách nhiệm tài chính riêng cho những ưu đãi đó.
Thứ hai, mối quan hệ giữa tài chính BHXH với tài chính doanh nghiệp
Trong mối quan hệ giữa tài chính BHXH với tài chính doanh nghiệp thì vấn
đề cần tập trung giải quyết hiện nay là.
- Giải quyết tình trạng nợ đóng, chậm đóng BHXH. Hiện nay, còn nhiều doanh nghiệp, trong đó có cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng chục năm nay không đóng tiền BHXH, số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng. Tình trạng này đã tác động xấu đến quyền lợi chính đáng của NLĐ, nhất là khi họ gặp những biến cố như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Vì vậy, nên có sự phối hợp chặt chẽ giữa NLĐ, tổ chức công đoàn cơ quan, BHXH, Sở lao động thương binh
và xã hội, kể cả Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đang hoạt động thường xuyên thanh tra, kiểm tra, rà soát, kịp thời phát hiện những doanh nghiệp nợ BHXH, yêu cầu doanh nghiệp truy nộp tiền BHXH. Cụ thể, cần sửa đổi, bổ sung pháp luật về BHXH theo hướng tăng mức xử phạt hành chính nợ BHXH, có cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong việc nộp tiền BHXH, ngăn chặn sự chậm trể trong việc đóng tiền BHXH. Thành lập hội đồng xử lý công nợ BHXH có thẩm quyền trong thu tiền BHXH khi chủ doanh nghiệp bỏ trốn, trường hợp số nợ BHXH phức tạp, nợ BHXH lớn thì chuyển giao cho cơ quan công an điều tra, xác minh, khởi tố chủ doanh nghiệp về tội “ lạm dụng chiếm đoạt tài sản”.
- Về phía quỹ BHXH phải giải quyết kịp thời, đầy đủ các chế độ BHXH cho NLĐ trong các doanh nghiệp để NLĐ yên tâm làm việc, góp phần tăng NSLĐ xã hội và đảm bảo an sinh xã hội bền vững.
Thứ ba, mối quan hệ giữa tài chính BHXH với tài chính trung gian
Cơ chế quản lý tài chính của BHXH cho phép BHXH Việt Nam được thực hiện các hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Trong thời gian nhàn rỗi chưa sử dụng đến, quỹ BHXH được phép cho các ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách vay, mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của kho bạc nhà nước và của các ngân hàng thương mại Nhà nước.Trong quá trình vận động của mình với mục đích cho vay, quỹ BHXH đã trở thành một trong những nguồn vốn huy động tạo lập nên quỹ tín dụng nhằm cung ứng một cách linh hoạt nhu cầu vốn ngày càng nhiều cho các hoạt động kinh tế xã hội. Tuy nhiên, theo báo cáo của BHXH Việt Nam hiện nay, quỹ BHXH đang có nguy cơ mất trắng vì những rủi ro trong hoạt động cho vay. Vì vậy, giải quyết mối quan hệ giữa tài chính BHXH với tài chính của các tổ chức tín dụng là rất cần thiết nhằm đảm bảo tài chính bền vững và tăng trưởng cho quỹ BHXH Việt Nam, cụ thể.
- Về cơ cấu cho vay, chủ trương cho vay đầu tư là theo luật định và có sự chỉ đạo của Hội đồng quản lý quỹ, tuy nhiên tỉ lệ cho ngân sách vay và mua trái phiếu Chính phủ chiếm hơn 70% là chưa thật hợp lý. Vì lãi suất thấp hơn so với đầu tư cho ngân hàng thương mại và các hình thức đầu tư khác với mức lãi suất cao hơn.
- Cần ưu tiên thứ tự đầu tư trước tiên cho những lĩnh vực ít rủi ro. Các đơn vị trong diện được cho vay tuy đều thuộc Nhà nước (các ngân hàng thương mại Nhà nước) nhưng vì đó cũng là những doanh nghiệp nên theo nguyên tắc nó có thể bị phá sản nếu kinh doanh không tốt. Chính vì thế BHXH cần phải cân nhắc kỹ khi cho vay. Nên có sự lựa chọn kỹ trước khi cho vay nếu cho các tổ chức tín dụng không có năng lực vay thì nguy cơ rủi ro cũng rất có thể xảy ra.
- Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người dân tham gia BHXH, cho nên phải sử dụng thật minh bạch. Phải quy định rõ trách nhiệm nếu xảy ra rủi ro khi đem tiền quỹ BHXH đi cho vay. Khi mang tiền BHXH đi cho vay thì phải đảm bảo an toàn, nếu xảy ra rủi ro thì trách nhiệm thuộc về thủ trưởng các đơn vị thuộc BHXH Việt Nam và trách nhiệm trong quản lý điều hành của tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Cần có tiêu chí rõ ràng khi cho vay để đảm bảo BHXH hoạt động đúng mục đích của nó.
- Về vấn đề lãi suất khi cho vay, do tỷ lệ lạm phát trong những năm gần đây quá cao dẫn đến hoạt động cho vay không có lãi. Lãi suất cho vay chưa bù đắp dược tỷ lệ lạm phát trong năm. Đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến mất cân đối quỹ về lâu dài
- Đối với các khoản nợ khó đòi khi cho các công ty tài chính vay, cần thúc
đẩy việc thu hồi nợ để đảm bảo không mất quỹ
Thứ tư, mối quan hệ giữa tài chính bảo hiểm xã hội với tài chính hộ gia đình.
Quỹ BHXH và tài chính của hộ gia đình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các khoản trợ cấp BHXH là một nguồn thu nhập quan trọng góp phần hỗ trợ các hộ gia đình ổn định cuộc sống khi chẳng may một thành viên trong gia đình có tham gia BHXH gặp rủi ro hoặc khi hết tuổi lao động. Ngược lại tài chính hộ gia đình cũng chính là nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Tài chính hộ gia đình có bền vững thì mới tạo điều kiện để người dân tham gia BHXH đặc biệt là BHXH tự nguyện. Vì vậy, cần phải có chính sách tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Giải quyết mối quan hệ giữa tài chính BHXH với tài chính của hộ gia đình là một trong những điều kiện để đảm bảo tài chính cho BHXH và đảm bảo an sinh xã hội bền vững.
- Muốn có đóng góp vào quỹ BHXH người lao động phải có thu nhập. Một xã hội mà tỷ lệ người lao động có thu nhập cao và ổn định chiếm ưu thế, thì hệ thống BHXH theo cơ chế đóng - hưởng sẽ có phạm vi bao phủ rộng, mức độ tác động lớn, đảm bảo an sinh cho một bộ phận lớn người dân trong xã hội. Ngược lại, nếu một xã hội mà tỷ lệ người lao động có thu nhập thấp và không ổn định chiếm ưu thế, thì phạm vi bao phủ của hệ thống BHXH sẽ có mức độ bao phủ thấp. Vì vây, Chính phủ cần phải có các chính sách tạo công ăn việc làm cho người lao động. Giải quyết vấn đề việc làm tất yếu sẽ làm tăng thu nhập cho NLĐ và do đó tăng được nguồn tài chính của các hộ gia đình.
- Quỹ BHXH phải đảm bảo chi đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH để nhằm
ổn định nguồn tài chính cho hộ gia đình.
- Đảm bảo lương hưu cho NLĐ khi hết tuổi lao động không giảm nhiều so với thu nhập khi còn đang làm việc nhằm đảm bảo mức sống của người nghỉ hưu tốt hơn và có điều kiện để thực hiện quy định về cách tính lương hưu của ngành BHXH, cần có quy định mức đóng BHXH để làm căn cứ tính lương hưu là thu nhập thực tế của người lao động.
- Thủ tục đăng ký tham gia BHXH cũng như các thủ tục về chi trả các chế độ BHXH phải đơn giản, nhanh gọn tạo niềm tin cho người lao động đối với hệ thống BHXH.
4.3.7. Hoàn thiện bộ máy quản lý và nâng cao chất lượng nhân lực bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội
Hiện nay, BHXH Việt Nam bao gồm cả bảo hiểm y tế là tổ chức sự nghiệp độc lập thuộc chính phủ. Tổ chức như vậy là phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, tách bạch chức năng quản lý hành chính Nhà nước với sản xuất, kinh doanh và sự nghiệp dịch vụ công. BHXH Việt Nam là tổ chức dịch vụ công về thực hiện các chính sách pháp luật về BHXH- do các cơ quan ban ngành chính sách, pháp luật ban hành. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống BHXH Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của nhiều Bộ như Bộ Lao động- Thương binh và xã hội, Bộ y tế, Bộ tài chính... do