Tình Hình Hoạt Động Đầu Tư Tăng Trưởng Quỹ Bhxh



Bảng 3.15: Tình hình hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH



TT


Năm

Số kết dư quỹ (tính

đến 31/12) (tỷ đồng)

Số dư đầu tư (tỷ đồng)

Tỷ lệ số dư đầu tư/ số kết dư

quỹ (%)

Lãi suất đầu tư bình quân

(%)


2007

74.958,0

68.808,0

91,8

7,64


2008

102.903,0

83.973,0

81,6

11,76


2009

106.849,0

98.563,0

92,2

9,39


2010

141.219,0

137.983,0

97,7

9,17


2011

184.656,0

180.962,0

98,0

9,55


2012

237.893,0

233.611,0

98,2

10,3

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội Việt Nam - 12

Nguồn: [8],[9],[10],[11],[12],[13]

Trong các hình thức đầu tư quỹ BHXH thì hình thức cho các Ngân hàng vay vốn là hình thức đầu tư có hiệu quả nhất. Cho NSNN vay là hình thức đầu tư mang lại hiệu quả thấp nhất. Hình thức đầu tư vào các công trình trọng điểm mới được thực thi từ năm 2011 nên chưa thể đánh giá một cách chính xác mức độ hiệu quả của hình thức này đến đâu.

Để đánh giá hiệu quả của các nguồn vốn đầu tư ta cần dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố sau:

- Lãi suất thực cho vay từ quỹ BHXH so với tỷ lệ lạm phát

Việc so sánh lãi suất bình quân đầu tư từ quỹ BHXH với tỷ lệ lạm phát trong năm có ý nghĩa to lớn, cho biết hoạt động đầu tư quỹ BHXH có thực sự hiệu quả không, có theo kịp đà lạm phát không. Ta có bảng so sánh lãi suất đầu tư bình quân từ quỹ BHXH và tỷ lệ lạm phát được tổng cục thống kê công bố từ 2007- 2012 như sau:

Bảng 3.16: So sánh lãi suất đầu tư bình quân năm từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH với tỷ lệ lạm phát trong năm giai đoạn (2007 -2012)

TT

Năm

Lãi suất bình quân (%)

Lạm phát (%)

Chênh lệch

(lãi suất thực tế)

1.

2007

7,64

12,63

-4,99

2.

2008

11,76

19,89

-8,12

3.

2009

9,39

31,8%

-22,7

4.

2010

9,17

11,75

-2,58

5.

2011

9,55

18,58

-9,03

6.

2012

10,3

7,5

2,8

Nguồn: BHXH Việt Nam- Tổng cục thống kê



Bảng 3.16 cho ta thấy lãi suất cho vay còn thấp hơn tỷ lệ lạm phát trong năm. Lãi suất cho vay chưa bù đắp được tỷ lệ lạm phát trong năm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân không nhỏ dẫn đến mất cân đối tài chính về lâu dài. Đặc biệt trong năm 2011 tỷ lệ lạm phát lên tới 18,58% trong khi lãi suất cho vay từ quỹ BHXH chỉ là 9,55% dẫn đến lãi suất thực âm 9,03%.

-Tính thanh khoản và thời hạn vay

Hầu hết toàn bộ nguồn vốn cho vay từ quỹ BHXH đều có tính thanh khoản cao, trừ khoản mua trái phiếu Chính phủ vì đây là loại trái phiếu không mua bán được trên thị trường. Xét về bản chất, việc cho vay đối với các ngân hàng thương mại chỉ là gửi tiền có kỳ hạn cho nên tính thanh khoản của lượng vốn vay này là cao nhất. Từ năm 2008 trở về trước, BHXH Việt Nam hầu như không cho vay kỳ hạn ngắn, nguồn vốn chủ yếu được đầu tư trung và dài hạn (3-10 năm), hiệu qủa sử dụng vốn trong trong ngắn hạn không cao, số dư tiền nhàn rỗi trên tài khoản thanh toán còn lớn.

- Tỷ lệ lãi thu được trên số dư đầu tư bình quân

Bảng 3.17: Tỷ lệ lãi thu được trên số dư bình quân hàng nằm từ quỹ BHXH giai đoạn 2007-2012


TT

Năm

Số dư đầu tư tính tới cuối năm

Số dư đầu tư bình quân

Số lãi thu

được

Tỷ lệ lãi thu được trên số dư đầu tư bình quân (%)

1

2007

68.808

64.773,5

4.794

7,4

2

2008

83.973

76.390,5

7.375

9,63

3

2009

98.563

91.268

8.390

9,19

4

2010

137.983

118.273

9.707

8,20

5

2011

180.962

159.472,5

14.377

9,02

6

2012

233.611

207.286,5

18.000

8,68

Nguồn: [8],[9],[10],[11],[12],[13]

Qua bảng 3.17 ta thấy, mặc dù lãi thu được và số dư đầu tư bình quân qua các năm đều tăng về số tuyệt đối, nhưng tỷ suất sinh lời lại tăng (giảm) không đều, có năm rất cao, có năm lại rất thấp, đây là một yếu tố bất lợi với quỹ BHXH, vì tỷ lệ tăng trưởng không đều đồng nghĩa với tăng trưởng quỹ không ổn định.



Từ các số liệu về thu, chi và đầu tư quỹ BHXH chúng ta thấy tình hình cân

đối quỹ BHXH giai đoạn 2007- 2012 như sau (Bảng 3.18)

Bảng 3.18: Tình hình cân đối quỹ BHXH giai đoạn 2007-2012

Đơn vị: Tỷ đồng


TT

Chỉ tiêu

2007

2008

2009

2010

2011

2012

1

Quỹ BHXH bắt buộc







1.1

Tổng thu BHXH (∑Ty)

89.422

112.882

135.182

164.251

201.278

260.994

+Tồn quỹ năm trước chuyển sang.

61.838

74.958

91.522

106.763

129.088

157.041

+ Số phát sinh tăng trong năm (thu BHXH và lãi từ hoạt động đầu tư)

27.584

37.924

43.660

57.488

72.190

103.953

1.2

Tổng chi BHXH (∑Cy)

14.464

21.360

28.419

35.163

44.237

60.375

1.3

Tồn quỹ cuối năm

74.958

91.522

106.763

129.088

157.041

200.619


Mức độ bền vững (Itcy)

0,162

0,189

0,210

0,214

0,219

0,231

2

Quỹ BHXH tự nguyện







2.1

Tổng thu BHXH (∑Ty)

-

11,43

86,1

366,5

605,1

1.039,6

Tồn quỹ năm trước chuyển sang.

-

-

11,4

85,5

314,1

608,3

Số phát sinh tăng trong năm

-

11,43

74,7

281,0

291,0

431,299

2.2

Chi BHXH (∑Cy)

-

0,003

0,6

25,4

23,8

61,299

2.3

Tồn quỹ cuối năm


11,4

85,5

241,1

608,3

978,0


Mức độ bền vững (Itcy)


0,0002

0,006

0,069

0,039

0,058

3

Quỹ BH thất nghiệp







3.1

Tổng thu BHXH(∑Ty)

-

-

3.668

9.589

16.830

25.203

Tồn quỹ năm trước chuyển sang.

-

-

-

3.668

8.980

15.580

Số phát sinh tăng trong năm

-

-

3.668

5.921

7.850

9.623

3.2

Chi BHXH (∑Cy)

-

-

-

609

1.250

3.028

3.3

Tồn quỹ cuối năm

-

-

3.668

8.980

15.580

21.815


Mức độ bền vững (Itcy)



0

0,06

0,074

0,12

Nguồn:[2],[3],[4],[5],[6],[7],[8],[9],[10],[11],[12],[13]

Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ tổng số chitrên tổng số thu quỹ BHXH bắt buộc có chiều hướng tăng lên. Tỷ lệ số chi trên số thu của BHXH tự nguyện chưa phản ánh đúng thực trạng chính sách do đây là loại hình BHXH mới, thời gian triển khai ngắn nên đối tượng hưởng không nhiều. Tổng số thu trên tống số chi quỹ BHTN tăng mạnh một phần do tình trạng thất nghiệp những năm qua gia tăng đó



khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mặt khác do công tác quản lý chi BHTN còn nhiều hạn chế dẫn đến quỹ BHTN bị lạm dụng

3.2.4. Thực trạng về đảm bảo công bằng đối với các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.

3.2.4.1 Đảm bảo quyền được tham gia bảo hiểm xã hội.

Từ năm 1995, thực hiện đổi mới trong hoạt động BHXH, phạm vi, số đối tượng tham gia BHXH theo quy định của pháp luật đã từng bước được mở rộng đến mọi người lao động trong các thành phần kinh tế. Năm 2006 Quốc hội đã ban hành luật BHXH, quy định ngoài BHXH bắt buộc có thêm BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Như vậy, nhờ sự điều chỉnh của hai bộ luật, người lao động, người dân đều có quyền tham gia BHXH và ngành BHXH là cơ quan tổ chức thực hiện 2 bộ luật đó.Nếu như trước năm 1995 đối tượng được BHXH là cán bộ công nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang thì nay tất cả những người lao động làm công ăn lương trong các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế đều là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.Số liệu về đối tượng tham gia BHXH được thể hiện qua bảng 3.19.

Bảng 3.19: Số đối tượng lao động tham gia BHXH từ năm 2003 đến năm 2013

Đơn vị tính: Người


STT

Năm

BHXH bắt buộc

BHXH tự nguyện

BH thất nghiệp

Tổng số đối tượng BHXH

1

2003

5.387.257

-

-

5.387.257

2

2004

5.819.983

-

-

5.819.983

3

2005

6.189.962

-

-

6.189.962

4

2006

6.746.553

-

-

6.746.553

5

2007

8.172.502

-

-

8.172.502

6

2008

8.539.467

6.110

-

8.545.577

7

2009

8.814.931

41.193

-

8.856.124

8

2010

9.441.246

81.319

7.206.231

16.728.728

9

2011

10.104.497

96.400

7.968.231

18.169.128

10

2012

10.436.868

139.643

8.304.774

18.881.285

11

2013

10.800.000

173.000

8.600.000

19.370.000

Nguồn;[8],[9],[10],[11],[12],[13]



Số liệu ở Bảng 3.19 cho thấy giai đoạn 2003- 2013 số lao động tham gia BHXH hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003 là năm đầu tiên thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP của Chính phủ, đối tượng tham gia BHXH được mở rộng nhưng số đối tượng tham gia BHXH chỉ tăng được 2,68% so với năm 2002, đến năm 2004 số lao động tham gia BHXH đã tăng gần 19% so với năm 2002 và trên 8,5% so với năm 2003, năm 2007 bắt đầu thực hiện Luật BHXH đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là 8.172.502 người, tăng 304,84% so với năm 1995 và đến năm 2012 đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là 10.436.868 người.

Tuy nhiên, số lao động tham gia BHXH trong các khu vực khác nhau cũng khác nhau.Khu vực hành chính sự nghiệp là khu vực có tính ổn định cao, do vậy người lao động tham gia BHXH biến động không nhiều, mỗi năm tăng trung bình chỉ khoảng 4-5%.[52, tr.20]

Khu vực doanh nghiệp Nhà nước đang trong giai đoạn tích cực chuyển đổi hình thức sở hữu, cổ phần hóa, bán, khoán cho thuê và giải quyết cho nhiều lao động dôi dư nghỉ việc theo nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ, do vậy số lao động tham gia BHXH của khu vực doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn này đều giảm hàng năm. Nếu so năm 2008 với năm 2003 số lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tham gia BHXH chỉ còn bằng 75,8%.[52,tr.20]

Khu vực ngoài quốc doanh từ khi thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP và nhất là từ khi thực hiện luật BHXH, số lao động tham gia BHXH luôn tăng cao. Đến năm 2009 số lao động tham gia BHXH khu vực ngoài quốc doanh tăng gần 1,424 triệu người, bằng 37% so với năm 2003. Nếu so với năm 2002 thì số lao động tham gia BHXH tăng 1,576 triệu người. Như vậy số lao động tham gia BHXH giai đoạn 2003-2012 của khu vực ngoài quốc doanh có tốc độ tăng cao nhất. [52, tr.20]

Đối với khu vực ngoài công lập, người lao động tham gia BHXH cũng tăng đáng kế. Năm 2003 số lao động khu vực hộ kinh doanh cá thể đăng ký tham gia BHXH chưa có, bắt đầu từ năm 2005 người lao động khu vực này mới bắt đầu tham gia BHXH. Tuy số lao động chưa nhiều nhưng trong 7 năm qua số lao động khu vực này tham gia BHXH đã tăng lên 3 lần. [52, tr.20]



Như vậy, trong giai đoạn này người lao động tham gia BHXH khu vực Nhà nước không tăng nhiều, thậm chí giảm, nhưng tốc độ lao động tham gia BHXH khu vực ngoài quốc doanh và ngoài công lập tăng đáng kể, góp phần mở rộng mạng lưới BHXH đến mọi người lao động.

Từ tháng 1/2009 thực hiện bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đối với đối tượng tham gia bảo hiểm bắt buộc. Đến hết năm 2012 đã có trên 8,3 triệu người tham gia, quỹ BHTN đã thu được gần 8 nghìn tỷ đồng và trên 4.500 người lao động đăng ký thất nghiệp trong đó có trên 1.000 người đã hoàn thiện hồ sơ để được hưởng BHTN.

Theo báo cáo của BHXH, tính đến ngày 31/5/2013, cả nước có 60,6 triệu người tham gia BHXH, tăng hơn 2,8 triệu người (4,9%) so với cùng thời điểm năm 2012. Trong đó số người tham gia BHXH tự nguyện là 146.000 người, tăng hơn

24.000 người (19,8%).

3.2.4.2. Đảm bảo sự công bằng trong mức đóng và mức hưởng.

Thứ nhất, mức đóng, căn cứ đóng và tỷ lệ đóng BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH được quy định tại Điều 91-92 Luật BHXH Việt Nam như sau:

- Đối với BHXH bắt buộc: Luật BHXH quy định, từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2009 mức đóng bằng 20% tiền lương, tiền công tháng (trong đó người sử dụng lao động đóng 15%, người lao động đóng 5%). Từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2011 đóng bằng 22% mức tiền lương, tiền công tháng (người sử dụng đóng 16%, người lao động 6%). Từ tháng 1/2012 đến tháng 12/2014 đóng bằng 24% (người sử dụng lao động đóng 17%, người lao động 7%). Từ năm 2014 trở đi mức đóng bằng 26% (người sử dụng lao động đóng 18%, người lao động đóng 8%). [51]

- Đối với BHXH tự nguyện: Hàng tháng người tham gia BHXH sẽ đóng bằng 16% mức thu nhập do người tham gia BHXH lựa chọn. Từ năm 2010 trở đi cứ 2 năm 1 lần, người lao động đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%. Mức thu nhập do người tham gia BHXH lựa chọn (gọi tắt là mức thu nhập tháng) thấp nhất bằng lương tối thiểu chung, cao nhất bằng 20 lần lương tối thiểu chung [51]. Như vậy, với việc quy định cụ thể mức đóng BHXH tự nguyện cũng như khống chế mức tối thiểu và mức tối đa khi tham gia BHXH tự nguyện, Luật BHXH đã tạo ra tiền đề pháp lý quan trọng cho việc triển khai áp dụng BHXH tự nguyện trên thực tiễn.



- Đối với bảo hiểm thất nghiệp: NLĐ đóng BHTN bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN. NSDLĐ đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những NLĐ tham gia BNTN.Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ lương, tiền công tháng đóng BHTN của những NLĐ tham gia BHTN và mỗi năm chuyển tiền một lần. [51]

Thứ hai, mức hưởng và điều kiện hưởng các chế độ BHXH. Mức hưởng và

điều kiện hưởng tùy thuộc vào từng loại chế độ BHXH, cụ thế là.

Một là, đối với loại hình BHXH bắt buộc

- Chế độ bảo hiểm ốm đau. Sau những lần sửa đổi bổ sung, hoàn thiện, cho đến nay chế độ BHXH này được áp dụng cho 2 đối tượng là NLĐ tham gia BHXH bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc hoặc NLĐ có con dưới 7 tuổi bị ốm phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác nhận của cơ sở y tế (trừ trường hợp ốm đau do tự hủy hoại sức khỏe, sử dụng ma túy và chất gây nghiện khác). Luật BHXH Việt Nam quy định NLĐ được hưởng trợ cấp BHXH tối đa từ 40 đến 70 ngày trong một năm tùy thời gian đã đóng BHXH và điều kiện làm việc. Mức hưởng trợ cấp BHXH ốm đau bằng 75% mức tiền lương đóng BHXH trước khi nghỉ ốm (đối với người thuộc lực lượng vũ trang hưởng 100%), trường hợp bị mắc bệnh phải điều trị dài ngày thì sau thời hạn nghỉ còn phải tiếp tục điều trị mức hưởng của những ngày sau đó bằng 65% hoặc 55% hoặc 45% tùy vào thời gian đã đóng BHXH. Nếu sức khỏe vẫn còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức không quá 10 ngày trong năm với mức hưởng 25% mức lương tối thiểu chung [51].

Như vậy, việc quy định thời gian hưởng chế độ ốm đau được hưởng tối đa trong năm là hợp lý, đảm bảo được nguyên tắc đặt ra của BHXH. Mặt khác phần quỹ chi trả chế độ ốm đau hoàn toàn do NSDLĐ đóng góp nên việc quy định khống chế thời gian hưởng chế độ ốm đau là cần thiết, thể hiện trách nhiệm của cả NSDLĐ đối với NLĐ. Mức hưởng chế độ ốm đau quy định nhìn chung là hợp lý, góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ trong trường hợp ốm đau phải nghỉ việc, đồng thời cũng đảm bảo được tính công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng cũng như khắc phục được sự lạm dụng trong thực tế.



- Chế độ bảo hiểm thai sản.NLĐ nữ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản trong các trường hợp sau: mang thai, sinh con; NLĐ nữ nhận con nuôi dưới 4 tháng tuổi; NLĐ đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.

Mức hưởng trợ cấp thai sản bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Lao động nữ sau thời gian hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật BHXH mà sức khỏe vẫn còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe từ 5 đến 10 ngày trong một năm. Mức hưởng một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung hoặc 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức tại các cơ sở tập trung [51].

Những quy định trên nhìn chung là hợp lý và được NLĐ chấp nhận, không có phát sinh trong quá trình thực hiện. Mức hưởng các chế độ bảo hiểm thai sản là hợp lý đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng lao động tham gia.

- Chế độ bảo hiểm TNLĐ-BNN. NLĐ được hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ- BNN khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 39 Pháp luật BHXH (2007). Tùy thuộc vào mức suy giảm khả năng lao động do TNLĐ-BNN được hưởng trợ cấp 1 lần hoặc hàng tháng. Bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì hưởng mức trợ cấp 1 lần với mức hưởng tính theo mức suy giảm khả năng lao động. Bị suy giảm khả năng lao động từ 31% đến 100% thì hưởng trợ cấp hàng tháng với mức hưởng tính theo mức suy giảm khả năng lao động. Trường hợp chết do TNLĐ- BNN thì thân nhân được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 36 tháng lương tối thiểu chung và hưởng chế độ tử tuất theo quy định [51]

Việc quy định cụ thể về điều kiện hưởng bảo hiểm TNLĐ-BNN hàng tháng đã tạo thuận lợi cho cơ quan BHXH trong việc giải quyết chế độ cho NLĐ. Mức hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN cũng đã đảm bảo hợp lý, công bằng cho các đối tượng thụ hưởng.

- Chế độ bảo hiểm hưu trí.NLĐ tham gia BHXH bắt buộc khi đủ 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên (đối với người thuộc lực lượng vũ trang thì tuổi nghỉ hưu thấp hơn 5 tuổi) thì được hưởng bảo hiểm hưu trí với mức hưởng tính theo số năm đóng BHXH.

Trường hợp NLĐ nghỉ việc nhưng không đủ điều kiện hưởng lương hưu thì

được hưởng trợ cấp 1 lần với mức hưởng tính theo số năm đóng BHXH, cứ mỗi

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 25/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí