Xu Thế Biến Đổi Một Số Đặc Tính Của Trầm Tích Đệ Tứ Tại Đbvb Tỉnh Quảng Nam


Thành phần trầm tích cát hạt rất thô lẫn sạn sỏi rất nhỏ (sạn sỏi chiếm 15,1-18,7%, cát chiếm 78,7-82,7%, bột – sét chiếm 2,2-2,6%), độ chọn lọc kém S0 = 2,33-2,36 hoặc sạn sỏi rất nhỏ lẫn cát bột thô (sạn sỏi chiếm 54,5-69,3%, cát chiếm 23,6-24,7%, bột – sét chiếm 6-21,9%), độ chọn lọc kém S0 = 3,98-7,13 (Phụ lục 3).

Tại các lỗ khoan nghiên cứu LK808A, LKQT09, LK8_cuadai trầm tích có thành phần là cát hạt nhỏ màu xám xanh, xám trắng bên dưới, chuyển lên trên là cát hạt mịn chứa sét màu xám nâu, xám vàng có lẫn tạp chất hữu cơ.

Tập hợp bào tử phấn hoa gồm: Myrtaceae;Cyperaceae; Palmae; Calamus; Nipafruticans; Poaceae; Arenga. Các phấn hoa hạt kín nước ngọt gồm: Anacardiaceae; Euphorbiaceae; Leguminoseae; Tiliaceae; Hamelidaceae [19].

Thành phần hóa học trầm tích nguồn gốc sông – biển tuổi Holocen muộn amQ23 gồm: SiO2 (53 - 67%), Al2O3 (17,2 - 21,3%), Fe2O3 (3,2 - 9,3%), FeO (0,47 - 0,65%),

MgO (0,79 - 1,43%), CaO (0,76 - 1,2%) [19].

Trầm tích phủ bất chỉnh hợp lên các trầm tích aQ22, amQ22np, mQ22.

Căn cứ vào đăc

điểm thach hoc̣ , quan hê ̣ đia

tầng, tập hợp bào tử phấn hoa...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

trầm tích được xếp vào nguồn gốc sông – biển với tuổi Holocen muộn (Q23) [19].

Chiều dày trầm tích thay đổi từ 1-3m; trung bình là 1,6m.

Đặc điểm địa chất Đệ tứ và tài nguyên nước dưới đất khu vực đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam - 10

c) Hệ tầng Cẩm Hà, trầm tích nguồn gốc sông-biển-đầm lầy (ambQ23ch)

Hệ tầng Cẩm Hà được Cát Nguyên Hùng xác lập năm 1996, dựa trên các trầm tích dọc theo hệ thống đầm phá cổ sông Trường Giang, Đế Võng.

Trầm tích phân bố thành dải hẹp dọc 2 bên sông Trường Giang, sông Đế Võng (chạy gần song song với bờ biển) và tập trung ở khu vực Điện Nam Đông, Điện Minh, Điện Dương (huyện Điện Bàn), Thanh Hà, Sơn Phong, Cẩm Phô, Cẩm Hà (Hội An). Tổng diện tích lộ ra là 34,91km2.

Thành phần trầm tích gồm cát hạt trung lẫn sạn sỏi rất nhỏ (sạn sỏi chiếm 6,3%, cát chiếm 91,8%, bột – sét chiếm 1,9%), độ chọn lọc kém S0 = 2,41 (Phụ lục 3).

Trầm tích phủ bất chỉnh hợp địa tầng lên các trầm tích cổ hơn như aQ22, mQ22, ambQ22, amQ21, mQ21no.

Căn cứ vào đăc

điểm thach hoc, quan hê ̣đia

tầng... trầm tích có nguồn gốc sông

– biển – đầm lầy này được xếp vào Holocen trên (Q23) [19].

Chiều dày trầm tích thay đổi từ 1,53-2,1m; trung bình là 1,85m (Hình 2.2).

d) Trầm tích nguồn gố c biển (mQ23)

Trầm tích phân bố dọc bờ biển, tạo nên bãi biển hiện đại chịu tác động trực tiếp của sóng biển và thủy triều. Bề rộng của bãi biển trung bình 20-300m. Tổng diện tích lộ ra là 16km2.


Thành phần trầm tích là cát hạt thô (cát chiếm 99,3%, bột – sét chiếm 0,7%), độ chọn lọc khá tốt S0 = 1,54 (Phụ lục 3); cát màu xám vàng chứa khoáng vật nặng ilmenit, zircon, amphibol.

Thành phần thạch học của trầm tích là cát thạch anh hạt nhỏ đến hạt trung màu xám vàng chứa khoáng vật nặng ilmenit, zircon, amphibol. Hệ số chọn lọc S0=1,32- 1,49 [19].

Trầm tích phủ bất chỉnh hợp lên các trầm tích cổ hơn Holocen giữa, Holocen dưới như mvQ22, mQ22, mQ21no.

Căn cứ vào đăc

điểm thach hoc, quan hê ̣đia

tầng... trầm tích bãi biển được xếp

vào Holocen trên (Q23) [19].

Chiều dày trầm tích trung bình là 2m (Hình 2.1).

2.3.3. Trầm tích Đệ tứ không phân chia

2.3.3.1. Tàn – sườn tích (edQ)

Trầm tích lộ ra ở dạng các chỏm đồi núi nhỏ nằm ở xã Đại Hiệp, Đại Nghĩa (huyện Đại Lộc), thị trấn Đông Phú, xã Quế Châu (huyện Quế Sơn). Trầm tích là sản phẩm phong hóa của đá magma của phức hệ Bến Giằng – Quế Sơn, đá phiến thạch anh hệ tầng A San (Єasn) với thành phần là sạn thạch anh được gắn kết với cát – bột

– sét màu vàng loang lỗ đỏ. Tổng diện tích là 3,80km2.

2.3.3.2. Trầm tích sông – sườn – lũ tích (adpQ)

Trầm tích sông – sườn – lũ tích có diện phân bố lớn nhất trong các loại trầm tích Đệ tứ không phân chia. Diện tích phân bố lớn nhất tập trung tại các xã Đại Hồng, Đại Phong, Đại Tân, Đại Chánh (huyện Đại Lộc), xã Duy Thu, Duy Phú, Duy Tân, Duy Châu, Duy Trinh (huyện Duy Xuyên), khu vực phía Tây Bắc huyện Quế Sơn (Quế Cường, Phú Thuận, Quế Thọ, Quế Châu, thị trấn Đông Phú), nằm rải rác ở các xã Bình Định Bắc, Bình Trị (huyện Thăng Bình), thị trấn Phú Thịnh, xã Tam Đàn (huyện Phú Ninh). Thành phần trầm tích là cuội, tảng nhỏ lẫn cát – bột – sét màu xám vàng bên dưới chuyển lên trên là cát sạn lẫn bột sét màu xám vàng, xám trắng. Tổng diện tích là 27,74km2.

2.3.3.3. Trầm tích sườn – lũ tích (dpQ)

Trầm tích kéo dài dọc theo chân núi Đồng Lâm tại khu vực xã Đại Đồng, Đại Quang, Đại Nghĩa huyện Đại Lộc tạo thành một dải đồng bằng hẹp trước núi có chiều rộng trung bình 20-250m. Thành phần trầm tích là tảng, dăm lẫn cát bột màu xám vàng.

Tổng diện tích là 1,84km2.


2.4. Xu thế biến đổi một số đặc tính của trầm tích Đệ tứ tại ĐBVB tỉnh Quảng Nam

Trầm tích Đệ tứ tại ĐBVB tỉnh Quảng Nam hình thành có mối quan hệ chặt chẽ với các thời kỳ dao động mực nước biển trong Đệ tứ dẫn tới nhiều đặc điểm thạch học của trầm tích như thành phần độ hạt (sạn sỏi – cát – bột sét), hệ số chọn lọc (S0) và thành phần hóa học trầm tích có tính chu kỳ theo thời gian thành tạo.

Từ kết quả phân tích thành phần độ hạt gần 1000 mẫu trầm tích, NCS đã tổng hợp lại thành 66 nhóm mẫu đặc trưng cho tất cả các loại trầm tích Đệ tứ tại ĐBVB tỉnh Quảng Nam. Các mẫu trầm tích này được chuyển đổi sang thang phân cấp của Wentworth và tính toán các thông số thành phần hạt theo phần mềm GRADISTAT, phiên bản 8.0 của Simon J. Blott.



100

80

60

40

20

0

Giai đoạn III

Giai đoạn IV

Giai đoạn V


Hàm lượng % sạn sỏi – cát – bột sét và xu hướng biển thiên (nét đứt)

Chu kỳ III

Chu kỳ IV

Chu kỳ V

Hình 2.11. Đồ thị hàm lượng % độ hạt các trầm tích Đệ tứ đồng bằng ven biển Quảng Nam, cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ.


Chu kỳ III

Chu kỳ IV

Chu kỳ V

Giai đoạn III

Giai đoạn IV

Giai đoạn V

Hàm lượng % sạn sỏi

0%

20%

40%

60%

80%

100%

Hàm lượng % cát Hàm lượng % bột sét Hình 2.12. Đồ thị hàm lượng % của độ hạt các trầm tích Đệ tứ đồng bằng ven biển Quảng Nam, cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ.

Trên các đồ thị, giai đoạn III tương ứng với giai đoạn hình thành trầm tích Pleistocen muộn, giai đoạn IV diễn ra từ Holocen sớm đến Holocen trung, giai đoạn V diễn ra từ cuối Holocen trung đến hiện tại; các giai đoạn I (thành tạo trầm tích Pleistocen sớm) và giai đoạn II (thành tạo trầm tích Pleistocen giữa) không có đủ mẫu trầm tích nên không xem xét quy luật (xem phần 3.3).

Đồ thị hình 2.11, 2.12 cho thấy hàm lượng hạt cát chiếm tỷ lệ khá lớn vào đầu và giữa giai đoạn IV, đầu giai đoạn V đều tương ứng với các thời kỳ biển tiến vào lục địa. Hàm lượng hạt thô sạn – sỏi trong giai đoạn III khá lớn (40-60%) là do điều kiện khí hậu tại thời điểm này có nhiều đợt mưa lũ cuốn trôi các sản phẩm phong hóa vật lý xuống các bồn trũng Đệ tứ [9, 28]. Ngoài ra, hàm lượng sạn sỏi và bột sét biến đổi tỷ lệ thuận với nhau, ngược lại với hàm lượng cát.

Hệ số chọn lọc của trầm tích Đệ tứ tại đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ. Đầu các giai đoạn hệ số chọn lọc kém hơn so với giữa và cuối mỗi giai đoạn (Hình 2.13).


10

9

8

7

6

5

4

3

2

1

Giai đoạn III

Giai đoạn IV

Giai đoạn V


Hệ số chọn lọc trầm tích (S0) và xu hướng biển thiên (nét đứt)

Chu kỳ III

Chu kỳ IV

Chu kỳ V

Hình 2.13. Đồ thị của hệ số chọn lọc (S0) các trầm tích Đệ tứ đồng bằng ven biển Quảng Nam, cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ.

1.3

1.1

0.9

0.7

0.5

0.3

Giai đoạn III

Giai đoạn IV

Giai đoạn V


Hệ số độ nhọn trầm tích (K) và xu hướng biển thiên (nét đứt)

Chu kỳ III

Chu kỳ IV

Chu kỳ V

Hình 2.14. Đồ thị của hệ số độ nhọn (K) các trầm tích Đệ tứ đồng bằng ven biển Quảng Nam, cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ.

1

1

2

2

Thành phần hóa học của trầm tích Đệ tứ tại đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam thể hiện xu thế biến đổi có tính chu kỳ. Trong đó Fe2O3 và Al2O3 biến đổi tỷ lệ thuận với nhau, ngược lại với hàm lượng SiO2. Oxit sắt và oxit nhôm có hàm lượng cao trong các trầm tích nguồn gốc sông, sông – biển, rất thấp trong các trầm tích có nguồn gốc biển do bị rửa trôi hoàn toàn trong quá trình vận chuyển từ lục địa ra biển. Trầm tích biển, biển gió có hàm lượng oxit silic cao hơn hẳn các trầm tích có nguồn gốc khác, như trầm tích mQ 3(1)lc (98-99%), mQ 3(2)đn (99-100%), mQ 1no (97-99%), mvQ 2no (93%).


100

80

60

40

20

0

Giai đoạn III

Giai Giai

đoạn IV đoạn V


Hàm lượng % SiO2 – Al2O3 – Fe2O3 và xu hướng biển thiên (nét đứt)

Chu kỳ III

Ch kỳ I

u Chu

V kỳ V

Hình 2.15. Đồ thị thành phần hóa học (SiO2 – Al2O3 – Fe2O3) của trầm tích Đệ tứ đồng bằng ven biển Quảng Nam, cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ.


3.5


3


2.5


2


1.5


1


0.5


0

Giai đoạn III

Giai Giai

đoạn IV đoạn V

Chu kỳ III

Chu kỳ IV

Chu kỳ V

Hàm lượng % K2O-MgO-CaO-Na2O và xu hướng biển thiên

Hình 2.16. Đồ thị thành phần hóa học (K2O-MgO-CaO-Na2O) của trầm tích Đệ tứ đồng bằng ven biển Quảng Nam, cho thấy xu thế biến đổi có tính chu kỳ.


* Qua kết quả nghiên cứu ở chương này NCS rút ra một số kết luận như sau:

- Trầm tích Đệ tứ tại đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam có 2 thống Pleistocen và Holocen như sau:

+ Thống Pleistocen có 3 phụ thống: Pleistocen hạ, Pleistocen trung, Pleistocen thượng (được chia thành phần dưới và phần trên). Có 7 hệ tầng đã được xác lập cho các trầm tích Pleistocen là Đại Phước, Miếu Bông, La Châu, Hòa Tiến, Đaị Thach, Thăng Bình, Đà Nẵng.

+ Thống Holocen có 3 phụ thống: Holocen hạ, Holocen trung, Holocen thượng.

Có 4 hệ tầng đã được xác lập cho trầm tích Holocen là Nam Ô, Nam Phước, Kỳ Lam, Cẩm Hà.

- Quá trình hình thành trầm tích Đệ tứ tại đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam chịu sự chi phối của mực nước biển tại vùng nghiên cứu. Các thông số của trầm tích như hàm lượng độ hạt, hệ số chọn lọc, thành phần hóa học trầm tích có xu thế biến đổi theo chu kỳ.

- Có 5 giai đoạn hình thành trầm tích Đệ tứ tại đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam theo sự biến đổi của mực nước biển. Trong 3 giai đoạn cuối từ Pleistocen muộn đến hiện tại các đặc điểm của trầm tích biến đổi theo quy luật như sau:

+ Hàm lượng hạt cát chiếm tỷ lệ khá lớn đầu và giữa giai đoạn IV, đầu giai đoạn V đều tương ứng với các thời kỳ biển tiến vào lục địa. Hàm lượng hạt thô sạn – sỏi trong giai đoạn III là lớn (40-60%) do có nhiều sản phẩm phong hóa vật lý.

+ Hệ số chọn lọc của trầm tích Đệ tứ tại đầu các giai đoạn kém hơn so với giữa và cuối mỗi giai đoạn.

+ Trong thành phần hóa học của trầm tích Đệ tứ, oxit sắt và oxit nhôm có hàm lượng cao trong các trầm tích nguồn gốc sông, sông – biển, rất thấp trong các trầm tích có nguồn gốc biển. Trầm tích biển, biển gió có hàm lượng oxit silic cao từ 97-100%.

*************************************************


CHƯƠNG 3

CÁC HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO VÀ SỰ THAY ĐỔI MỰC NƯỚC BIỂN TRONG ĐỆ TỨ TẠI KHU VỰC ĐỒNG BẰNG

VEN BIỂN TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Đặc điểm kiến tạo Đệ tứ đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam

3.1.1. Các yếu tố cấu trúc kiến tạo trước Đệ tứ

Vùng đồng bằng Quảng Nam có bình đồ cấu trúc mang tính chất khối tảng rõ nét [1], bao gồm hai đơn vị cấu trúc cơ bản sau (Hình 3.1):

* Trũng địa hào Đại Lộc - Hội An: Trũng địa hào Đại Lộc - Hội An nằm ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn, là trũng trầm tích Kainozoi được phát triển kế thừa từ Mezozoi. Độ sâu đáy trầm tích Đệ tứ dao động từ 20m đến hơn 100m.Vị trí sâu nhất tại Hội An có thể hơn 135m mới chạm tới trầm tích gắn kết tuổi Neogen muộn.

Trũng địa hào

Đại Lộc – Hội An

Khu vực sụt lún yếu

Thăng Bình – Núi Thành

Vị trí vùng nghiên cứu

Hình 3.1. Bình đồ cấu trúc trước Đệ tứ và hệ thống đứt gãy KTĐT-KTHĐ vùng nghiên cứu

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 04/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí