Quan hệ vợ - chồng
Pháp luật phong kiến quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ có con cái. Vợ hoặc chồng không được quy định trong một hàng thừa kế cố định nào và vị trí của người vợ bao giờ cũng bị xem nhẹ. Khi người phụ nữ kết hôn thì người chồng đương nhiên trở thành chủ sở hữu của tất cả tài sản trong gia đình, quyền lực gia đình tập trung vào người chồng. Về vấn đề này, Quốc triều Hình Luật tiến bộ hơn so với pháp luật thời kỳ phong kiến. Theo quy định, những tài sản do vợ và chồng làm ra thì chia đôi. Người còn sống sở hữu 1/2, phần của người chết sẽ chia thừa kế. Trước khi chia thừa kế, phải dành lại 1/20 điền sản để làm hương hỏa. Mặc dù vậy, vị trí của người phụ nữ trong xã hội phong kiến vẫn không được cải thiện là bao.
Khác với pháp luật phong kiến, xuất phát từ tầm quan trọng của quan hệ hôn nhân, pháp luật thực định luôn xem đó là cơ sở để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật. Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: "Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế". Vợ, chồng bao giờ cũng được ghi nhận ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau.
Không chỉ ghi nhận quyền thừa kế của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (hôn nhân hợp pháp hoặc được Tòa án công nhận), trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác thì quyền thừa kế của nhau vẫn được pháp luật bảo đảm, cụ thể như sau:
1. Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
2. Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.
Quan hệ cha mẹ và con
Cha mẹ và con được hưởng thừa kế của nhau dựa trên quan hệ huyết thống. Xuất phát từ cha mẹ sinh các con và có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng các con trưởng thành. Ngược lại, các con phải kính trọng, yêu thương, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ. Do vậy, hoàn toàn phù hợp khi họ là những người được hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất của nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Tác Động, Chi Phối Việc Xác Định Diện Thừa Kế Và Phân Chia Hàng Thừa Kế
- Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 - 7
- Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 - 8
- Sự Cần Thiết Phải Hoàn Thiện Những Quy Định Về Diện Thừa Kế Và Hàng Thừa Kế Theo Pháp Luật
- Khó Khăn Trong Việc Xác Định Người Thừa Kế Do Một Số Quy Định Của Pháp Luật Còn Thiếu Hoặc Không Rõ Ràng
- Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Trong quan hệ thừa kế ở hàng thứ nhất thì con nuôi cũng được thừa kế của cha mẹ nuôi. Pháp luật thời kỳ phong kiến tuy thừa nhận bình đẳng giữa các con trong gia đình (theo quy định trong Luật Hồng Đức, hàng thừa kế thứ nhất gồm các con: con trai, con gái) nhưng lại quy định con nuôi không được thừa kế di sản của bố, mẹ bởi vì trong xã hội phong kiến, việc thừa kế di sản không những là việc thừa hưởng quyền sở hữu tài sản mà còn là sự kế thừa danh dự và địa vị xã hội của ông, bà, cha, mẹ. Đồng thời, pháp luật nước ta trước đây cũng không thừa nhận quan hệ thừa kế giữa người con được cho đi làm con nuôi của người khác với cha mẹ đẻ. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành thừa nhận sự tồn tại của cả hai mối quan hệ thừa kế giữa con nuôi với cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Điều này phù hợp với đạo đức truyền thống vì quan hệ nuôi dưỡng phát sinh khi có sự kiện nhận con nuôi nhưng quan hệ huyết thống là quan hệ máu mủ ruột thịt, là quan hệ thiêng liêng không thể chia cắt.
Quy định về hàng thừa kế thứ nhất cho thấy, giữa con đẻ và con nuôi không có sự phân biệt, những người con này có quyền thừa kế ngang nhau khi hưởng di sản thừa kế của cha mẹ. Điều này phù hợp với mục đích nhận và nuôi con nuôi, thể hiện lòng nhân đạo, yêu thương giữa cha mẹ và con trong gia đình, đồng thời bù đắp những thiếu hụt về tinh thần cho những người con nuôi.
Xuất phát từ phong tục, truyền thống, văn hóa, kinh tế, xã hội không giống nhau nên những quy định của pháp luật về hàng thừa kế của các nước có sự khác nhau.
Theo Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, quyền thừa kế đầu tiên đối với di sản của người chết là những người bề dưới, không kể độ tuổi, giới tính và không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được hưởng di sản. Như vậy, ở hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của Cộng hòa Pháp thì không phụ thuộc vào bất kỳ một hàng thừa kế nào. Vợ hoặc chồng chỉ được thừa kế di sản của nhau trong trường hợp không có thân thuộc của bên vợ hoặc chồng chết trước có thể thừa kế.
Pháp luật Nhật Bản không xếp vợ, chồng vào một hàng thừa kế nào. Xuất phát từ việc quy định hàng thừa kế thứ nhất dựa trên quan hệ huyết thống trực hệ, do vậy, vợ chồng theo quy định của pháp luật Nhật Bản không thuộc hàng thừa kế thứ nhất do không có quan hệ huyết thống. Ngoài ra, pháp luật Nhật Bản không coi quan hệ nuôi dưỡng là cơ sở xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật. Có trường hợp những người được hưởng thừa kế cùng một lúc nhưng lại không được hưởng phần di sản như nhau. Trong trường hợp có hai người thừa kế cùng hàng thì phần của người chồng và người vợ của người để lại di sản sẽ được hưởng theo nguyên tắc nhất định.
So với các nước, quy định về hàng thừa kế thứ nhất của pháp luật nước ta được xây dựng trên cơ sở phù hợp với truyền thống gia đình Việt Nam. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có mối quan hệ thân thuộc gần gũi nhất được xây dựng trên nền tảng gia đình, trong đó cha mẹ có bổn phận và trách nhiệm cùng nhau duy trì cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái. Ngược lại, con cái có nghĩa vụ yêu thương, kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng di sản ngang nhau và là những người được thừa kế đầu tiên theo pháp luật khi mở thừa kế.
2.3.2. Hàng thừa kế thứ hai
Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Ở hàng thừa kế này, các bậc bề trên có ông bà nội, ngoại; ngang bậc có anh, chị, em ruột; bề dưới có các cháu gọi người để lại di sản là ông, bà nội ngoại. Có thể nhận thấy, những người thuộc hàng thứ hai có mối quan hệ thân thích khá gần với người để lại di sản. Tuy nhiên, ông, bà, anh, chị, em ruột, các cháu không thể đặt vị trí ngang hàng với cha, mẹ, vợ, chồng, con của người để lại di sản nên chỉ được ưu tiên hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai.
Xét về mối quan hệ nuôi dưỡng ở hàng thừa kế thứ hai thì ông, bà là người thay cha, mẹ (khi cha mẹ mất hoặc cha mẹ không đủ điều kiện nuôi dưỡng) chăm sóc, dạy dỗ cháu nên người. Nghĩa vụ này xuất phát từ mối liên hệ máu mủ trong gia đình, dòng tộc, đồng thời xuất phát từ nền tảng đạo đức của người Việt. Ngược lại, các cháu phải yêu thương, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà lúc tuổi già sức yếu. Vì vậy, ông bà và các cháu là những người thuộc diện thừa kế của nhau và được xếp vào hàng thứ hai.
Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định bổ sung cháu nội, cháu ngoại của người để lại di sản được hưởng di sản theo trình tự hàng. Đây là điểm mới so với quy định về người thừa kế theo hàng tại Điều 679 Bộ luật Dân sự năm 1995. Quy định này xét theo quan niệm dân gian "nước mắt chảy xuôi" là phù hợp quy luật cuộc sống. Di sản của ông, bà được chuyển giao đến đời cháu sẽ đảm bảo hầu như chắc chắn của cải của ông, bà sẽ được kế tục và duy trì đến đời sau. Hơn nữa, xét về thực tiễn, quy định này sẽ bảo vệ triệt để hơn nữa quyền thừa kế của các cháu nội, ngoại của người để lại di sản trong những trường hợp cụ thể, đồng thời cũng giải quyết có hiệu quả hơn các quan hệ xã hội có liên quan đến việc chia di sản và nhận di sản thừa kế, tạo ra sự nhất thể hóa trong các quy định của pháp luật về thừa kế.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy quy định các cháu hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai như Điều 676 thực tế sẽ xảy ra những trường hợp rất phức tạp, bởi vì các cháu nội, ngoại được thừa kế của ông, bà nội ngoại chỉ có thể xảy ra trong hai trường hợp:
- Bố mẹ các cháu không được quyền hưởng di sản, hàng thừa kế thứ nhất không còn ai hưởng di sản;
- Bố mẹ các cháu từ chối hưởng di sản, hàng hàng thừa kế thứ nhất không còn ai hưởng di sản.
Hơn nữa, trong trường hợp hàng thừa kế thứ nhất không còn ai thì cũng không áp dụng hàng thứ hai đối với các cháu vì trường hợp này sẽ áp dụng thừa kế thế vị cho các cháu.
Cùng với ông ông bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột của người chết được xác định là những người ở hàng thừa kế thứ hai. Do cùng cha mẹ, cùng cha hoặc cùng mẹ sinh ra, anh, chị, em ruột là những người có mối quan hệ huyết thống. Trong gia đình, nếu không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con thì các anh, chị, em phải yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng nhau, do đó họ là những người thừa kế ở hàng thứ hai của nhau.
Pháp luật một số nước trên thế giới cũng thừa nhận quyền thừa kế giữa anh, chị, em ruột nhưng có sự phân biệt giữa anh, chị, em cùng mẹ, cùng cha và anh chị em cùng cha hoặc cùng mẹ. Pháp luật Thái Lan quy định: Anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thuộc hàng thừa kế sau của anh, chị, em cùng cha cùng mẹ. Pháp luật Nhật Bản lại quy định anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha chỉ được hưởng kỷ phần bằng 1/2 của anh, chị, em cùng cha mẹ đối với người để lại thừa kế.
Hàng thừa kế thứ hai không bao gồm anh, chị em nuôi như trong một số văn bản về thừa kế giai đoạn trước quy định và cũng không bao gồm cháu nuôi. Con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với những người con khác của người nhận con nuôi. Cha mẹ của người nhận con nuôi cũng không có quyền thừa kế của người con nuôi đó. Như vậy, pháp luật không công nhận quan hệ thừa kế giữa những người mà theo cách gọi trong dân gian là anh, chị, em nuôi với nhau, ông bà nuôi với
cháu nuôi. Điều này là hợp lý bởi quan hệ con nuôi chỉ phát sinh do sự kiện nhận nuôi con nuôi. Quan hệ đó chỉ có ý nghĩa đối với người nhận nuôi và người được nhận nuôi mà không làm ảnh hưởng tới những người thân thích khác trong gia đình của người nhận nuôi con nuôi.
2.3.3. Hàng thừa kế thứ ba
Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Ở hàng thừa kế thứ ba: Bề trên có các cụ nội, ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột; bề dưới có các cháu ruột là con của anh, chị, em ruột và các chắt của người để lại di sản.
Trong hàng thừa kế thứ ba có mối quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ và có những người không thuộc đại diện đương nhiên của nhau. Phạm vi những người hưởng di sản được mở rộng thêm với quy định những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ xa hơn được hưởng di sản thừa kế của nhau. Điều này thể hiện sự bảo vệ ở mức cao hơn quan hệ huyết thống trong phân chia di sản thừa kế theo pháp luật Quy định người thừa kế được hưởng di sản không phân biệt huyết thống về bên nội hay bên ngoại thể hiện sự tiến bộ của pháp luật hiện hành về thừa kế của nước ta.
Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột - những người là anh, chị, em ruột của cha, mẹ người để lại di sản, mặc dù thông thường không thuộc chung một gia đình với người để lại di sản, không có nghĩa vụ nuôi dưỡng luật định với người để lại di sản nhưng là người có quan hệ thân thích bàng hệ với người đó.
Cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột - ngược lại, là con của anh, chị, em ruột người để lại di sản. Nếu anh, chị, em ruột là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai thì con của họ được xếp vào hàng thừa kế thứ ba là hợp lý. Thực tế họ không thể cùng cha, mẹ mình là những người có quan hệ gần gũi hơn với người chết đồng thời nhận di sản.
Cụ nội, cụ ngoại của người chết; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tại hàng thừa kế thứ ba, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã bổ sung đối tượng được thừa kế là các chắt của người chết mà người chết là các cụ nội, ngoại. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng quy định như vậy là không cần thiết vì trên thực tế cụ và các chắt có khoảng cách về độ tuổi khá lớn, thường không trực tiếp nuôi dưỡng nhau. Di sản của cụ để lại đến thế hệ chắt thì sự chia nhỏ tài sản là rất lớn. Ngược lại, di sản của chắt được phân chia tới các cụ cũng là điều rất ít xảy ra bởi khó có trường hợp chắt lại chết trước cụ và bản thân các cụ nếu có thực tế nhận di sản của chắt thì ý nghĩa kinh tế của di sản là không đảm bảo. Quan điểm như vậy không thực sự hợp lý bởi không phù hợp với truyền thống Việt Nam: lá lành đùm lá rách, yêu thương nhau, không phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam hiện đại và xa rời mục đích cơ bản của thừa kế là tài sản của thế hệ trước để lại thế hệ sau.
Qua phân tích về các hàng thừa kế, ta nhận thấy Luật Dân sự hiện hành điều chỉnh hàng thừa kế trong phạm vi từ Cụ đến Chắt (đều thuộc hàng thừa kế thứ ba của nhau) và không quy định xa hơn là xuất phát từ thực tế tuổi thọ của con người. Đồng thời, việc mở rộng hàng thừa kế nhằm tránh di sản thừa kế nằm trong tay Nhà nước, di sản phải được chia hết trong dòng tộc, mục đích nhằm củng cố và bảo hộ triệt để hơn nữa quyền lợi những người trong dòng tộc.
2.3.4. Trình tự hưởng di sản theo hàng
Pháp luật phân chia ba hàng thừa kế như vậy đồng thời cũng quy định rõ về trình tự hưởng di sản theo hàng thừa kế.
Khoản 3 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Theo quy định của pháp luật, người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, vì vậy, nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất do họ đã chết hoặc chưa chết nhưng không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì việc phân chia di sản theo hàng đó không thể thực hiện được mà phải tính đến việc chia thừa kế cho những người ở hàng thừa kế thứ hai và tương tự đến hàng thừa kế thứ ba.
Như vậy, các hàng thừa kế nói trên được hưởng di sản theo nguyên tắc: Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang bằng nhau, hàng gần loại trừ hàng xa và không thể có hai người thừa kế ở hai hàng khác nhau cùng được hưởng di sản theo pháp luật.
2.4. THỪA KẾ THẾ VỊ
Theo quy định, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Như vậy, nếu con chết trước cha, mẹ thì họ không được hưởng di sản của cha mẹ mình. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho những người thân gần gũi trong gia đình thì Pháp lệnh Thừa kế đã quy định tại Điều 26 và Bộ luật Dân sự năm 1995 đã cụ thể hóa tại Điều 680 như sau: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống" [24]. Những trường hợp này được gọi là thừa kế thế vị.