Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 - 8

đề có liên quan đến việc ly hôn vì chế độ đa thê. Nhằm từng bước xóa bỏ những tàn dư của chế độ cũ, pháp luật của Nhà nước ta đã xác định giới hạn đình chỉ những quan hệ hôn nhân trái với pháp luật hiện hành, cụ thể là:

- Đối với miền Bắc, với những người có nhiều vợ trước ngày ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, theo Sắc lệnh số 02-SL ngày 13/01/1960 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thì không đặt vấn đề vi phạm luật. Do vậy, quan hệ hôn nhân của vợ chồng xác lập trước ngày 13/01/1960 tuy có vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng vẫn tồn tại và được coi là không trái pháp luật. Theo quy định trên, khi chồng chết, các người vợ được thừa kế của chồng hoặc khi các người vợ chết trước thì chồng được thừa kế của các người vợ.

Như vậy, quy định trên chỉ là giải pháp quá độ phù hợp với thực tế lúc bấy giờ do hoàn cảnh lịch sử để lại. Thực chất, pháp luật về hôn nhân và gia đình đã tuyên bố chấm dứt các quan hệ hôn nhân đa thê kể từ sau ngày 13/01/1960 ở Miền Bắc nước ta.

- Đối với miền Nam, một người có nhiều vợ trước ngày 25/3/1977 (ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước) mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả những người vợ đều được coi là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, khi các vợ chết trước, chồng được thừa kế của các vợ.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, năm 1986 quy định rõ về trình tự, thủ tục, điều kiện đăng ký kết hôn nhưng thực tế giai đoạn trước đây do tàn tích của chế độ phong kiến còn tồn tại có nhiều trường hợp kết hôn không theo đúng trình tự pháp luật quy định, hình thành nên khái niệm "hôn nhân thực tế". Vấn đề này đã được quy định tại Thông tư số 112/NCPL ngày 19/8/1972 của Tòa án nhân dân tối cao. Thông tư số 112 ghi nhận:

Hôn nhân thực tế là những cuộc hôn nhân không đăng ký, thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn khác, trong đó hai bên có ý

định thực sự lấy nhau, đã thực tế coi nhau như vợ chồng, chung sống công khai, gánh vác chung công việc gia đình, được họ hàng, xã hội xung quanh coi như vợ chồng [32].

Thời kỳ đổi mới và phát triển đất nước, nhằm giải quyết dứt điểm những quan hệ vợ chồng không tuân thủ quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tại Điều 2 Nghị định số 77 quy định: Quan hệ vợ chồng chưa đăng ký mà được xác lập trước 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) thì việc đăng ký kết hôn không bị hạn chế về thời gian. Nhưng nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng. Tại Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng". Như vậy, đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng.

Có thể thấy, pháp luật chỉ thừa nhận hôn nhân thực tế đối với quan hệ nam nữ trên thực tế đã chung sống với nhau như vợ chồng từ trước 03/01/1987. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm từ 01/01/2001 đến 01/01/2003. Đặc biệt, với quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, pháp luật đã xóa bỏ hoàn toàn khái niệm hôn nhân thực tế. Điều này là hoàn toàn phù hợp với điều kiện phát

triển kinh tế, xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển lên một mức cao hơn, các mối quan hệ trở nên đa dạng, phức tạp hơn, ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân ngày càng cao và trình độ dân trí ngày càng phát triển.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Như vậy, hôn nhân thực tế được tòa án thừa nhận cũng được coi là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, vấn đề hôn nhân thực tế được thừa nhận ở nước ta chỉ là một giải pháp tình thế nhằm giải quyết những vấn đề con chung của vợ chồng, vấn đề tài sản của vợ chồng, vấn đề thừa kế di sản nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, đặc biệt là bảo vệ lợi ích của người phụ nữ và trẻ em.

2.2.3. Thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng

Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 - 8

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ mà trong đó những người thân thuộc thể hiện sự quan tâm, chăm sóc và nuôi dưỡng nhau.

Với truyền thống gia đình Việt Nam thì nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa các thành viên trong gia đình được xem như chuẩn mực đạo đức, thấm nhuần triết lý nhân sinh. Chính vì vậy, nguyên tắc về nghĩa vụ kính trọng ông bà, cha mẹ, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa các thành viên trong gia đình đều được ghi nhận khi xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, Chương 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là một chương mới có ý nghĩa đề cao vai trò, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình, đồng thời khẳng định quan hệ giữa ông bà và các cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình là một bộ phận của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống cần được bảo vệ, khuyến khích việc duy trì và phát triển gia đình theo truyền thống Á Đông. Vì thế, quan hệ nuôi dưỡng là cơ sở xác định diện thừa kế theo pháp luật.

Trong gia đình, cha mẹ đẻ, con đẻ có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau là điều đương nhiên bởi "máu chảy ruột mềm", sự chăm sóc, nuôi dưỡng

nhau giữa họ là nghĩa vụ thiêng liêng. Bên cạnh đó, giữa các anh, chị, em ruột cũng thể hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp cha mẹ mất sớm, cha mẹ còn nhưng không có khả năng lao động hoặc không có năng lực hành vi dân sự. Với quan niệm "anh em như thể chân tay", việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhau giữa các anh, chị, em ruột cũng là căn cứ để phát sinh quan hệ thừa kế giữa họ với nhau.

Đối với ông bà nội, ngoại và các cháu nội, ngoại: Theo quy định của pháp luật, nếu cháu chưa thành niên hoặc không có khả năng lao động, không có năng lực hành vi dân sự hoặc không có tài sản để tự nuôi mình thì ông bà nôi, ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. Ngược lại, cháu cũng có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con. Ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng, cháu và ông bà còn là người giám hộ đương nhiên của nhau và đồng thời cũng có nghĩa vụ đại diện theo pháp luật cho nhau. Như vậy, ngoài mối quan hệ huyết thống, dựa trên quan hệ nuôi dưỡng thì ông bà và các cháu thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau.

Đối với cha mẹ nuôi với con nuôi: Mối quan hệ của họ không phải là quan hệ huyết thống, quan hệ thừa kế của họ được xác định trên cơ sở quan hệ nuôi dưỡng. Quyền lợi, nghĩa vụ của con nuôi và con đẻ như nhau. Khi nhận nuôi một người con nuôi thì người con đó đương nhiên trở thành một thành viên trong gia đình cha, mẹ nuôi. Khi mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi được thiết lập thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi, ngược lại, người con nuôi phải biết yêu thương, kính trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ nuôi. Mặt khác, khi một người được nhận làm con nuôi sẽ xuất hiện hai mối quan hệ: với cha mẹ nuôi và với cha mẹ đẻ. Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định ngoài việc được hưởng thừa kế của cha mẹ nuôi, người con nuôi vẫn được thừa kế di sản của cha mẹ đẻ và những người thân trong gia đình cha mẹ đẻ. Tuy nhiên, luật thực định không thừa nhận khái niệm anh, chị, em nuôi, cháu nuôi nên người con nuôi

không có quyền thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ và con đẻ của người là cha nuôi, mẹ nuôi của họ.

Việc nhận con nuôi phải tuân thủ trình tự, thủ tục, điều kiện nhận nuôi (ví dụ: Cha mẹ nuôi phải hơn con nuôi tối thiểu 20 tuổi; con nuôi phải nhỏ hơn 15 tuổi, trừ trường hợp người tàn tật, suy giảm năng lực hành vi dân sự). Tuy nhiên, trên thực tế, do không hiểu biết pháp luật nên nhiều trường hợp không thực hiện đúng thủ tục do pháp luật quy định về nhận con nuôi nhưng pháp luật vẫn thừa nhận đó là quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi thực tế. Quyền và lợi ích của con nuôi thực tế và cha mẹ nuôi không có gì thay đổi trong quan hệ giữa cha mẹ và con. Dựa trên nguyên tắc này thì cơ sở để xác định mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi là mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng trên thực tế.

Quan hệ giữa cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng: Luật không quy định cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau và giám hộ, đại diện đương nhiên của nhau. Tuy nhiên, theo Điều 679 Bộ luật Dân sự năm 2005, nếu thực tế cha kế, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau. Nếu con riêng của vợ, chồng mà chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế khi qua đời. Con riêng và cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế theo quy định tại Điều 676 và 677 Bộ luật Dân sự. Quy định này là sự tiến bộ phù hợp với đời sống thực tế nhằm ngăn chặn những tư tưởng lạc hậu thường tồn tại trong quan hệ của một số người. Tuy nhiên, quy định như vậy chưa thực sự rõ ràng. Thực tế không có tiêu chí cụ thể để xác định thế nào là là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, việc áp dụng quy định trên để giải quyết sẽ không thống nhất và quyền lợi giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế khó được đảm bảo.

Có thể nói, xuất phát từ cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế, phạm vi diện những người được thừa kế theo pháp luật được xác định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có sự mở rộng và phù hợp hơn, cụ thể là:

- Diện những người thừa kế được mở rộng theo số lượng hàng thừa kế theo pháp luật đã bảo đảm cho việc chia di sản thừa kế của công dân được thực hiện triệt để nhất. Di sản thừa kế được chia cho những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản, bảo đảm việc chia di sản thừa kế cho những người trong dòng tộc được hưởng và chỉ trong những trường hợp đặc biệt, khi không còn người thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế mới thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Việc áp dụng pháp luật có tính hiệu quả hơn, hợp lý và có tính thuyết phục hơn, đồng thời, cũng là căn cứ bảo vệ quyền sở hữu và quyền thừa kế của công dân một cách triệt để nhất, phù hợp với đạo lý trong quan hệ dòng tộc bên nội và bên ngoại của người chết. Qua đó, thắt chặt mối đoàn kết trong dòng họ của người để lại di sản và người thừa kế theo pháp luật.

- Quyền sở hữu và quyền thừa kế của công dân được pháp luật bảo vệ không chỉ ở chính nội dung của quy phạm mà còn được thực hiện trên thực tế. Quy định về thừa kế đã giải quyết triệt để quan hệ của những người có quyền thừa kế theo pháp luật. Pháp luật tôn trọng triệt để quyền để lại di sản và quyền thừa kế của công dân là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất trong xã hội phát triển phù hợp với các thành phần kinh tế và hình thức sở hữu ở nước ta hiện nay và tương lai. Diện thừa kế theo pháp luật được mở rộng là phù hợp với thực tế của các quan hệ xã hội, loại bỏ sự áp đặt thiếu khách quan, không toàn diện, không phù hợp với đời sống xã hội về quan hệ huyết thống của những người trong dòng tộc.

- Sự mở rộng diện thừa kế theo số lượng hàng thừa kế tạo sự chủ động cho cơ quan xét xử trong quá trình sử dụng các quy phạm pháp luật về thừa kế để giải quyết những tranh chấp từ quan hệ đó. Tính nhất quán, ổn định ở

bình diện rộng vừa khái quát, vừa khoa học, phù hợp với thực tế và có tính khả thi, thuyết phục khi cần giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế.

Như vậy, xác định diện thừa kế theo pháp luật trước hết để xác định những người có quyền hưởng di sản, sau nữa loại trừ những người không thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc thuộc diện thừa kế nhưng không có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật. Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được xác định dựa trên ba mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Ba mối quan hệ này có tính độc lập tương đối, quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản với người thừa kế. Chỉ có sự xác định diện những người thừa kế theo pháp luật chuẩn xác mới ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong dòng tộc và có tác dụng giáo dục ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thuộc diện thừa kế.

Việc xác định diện thừa kế theo pháp luật Việt Nam trong Bộ luật Dân sự năm 2005 theo khuynh hướng mở rộng hơn so với các văn bản pháp luật trước đó đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, bảo đảm tuyệt đối việc chuyển quyền sở hữu tài sản của người chết cho những thân nhân của chủ sở hữu đó, mở rộng tính dân chủ trong pháp luật thừa kế, phù hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng trong giai đoạn hiện nay, khuyến khích mọi người sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật chất cho gia đình và cho xã hội.


2.3. HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT


Căn cứ vào mối quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng ở mức độ thân thích khác nhau mà pháp luật của các nước đều xác định thứ tự ưu tiên theo một trình tự hưởng di sản và theo đó hàng thừa kế được hình thành. Như vậy, không phải tất cả người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được hưởng di sản mà người được nhận di sản thừa kế phụ thuộc vào vị trí hàng thừa kế.

Nếu quy định về diện thừa kế có thể bất biến hoặc tương đối ổn định thì hàng thừa kế mang tính chất khả biến trong phạm vi diện thừa kế. Mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, hàng thừa kế được quy định khác nhau. Phân chia hàng thừa kế theo pháp luật là căn cứ vào mức độ gần gũi và trách nhiệm nuôi dưỡng của người để lại di sản thừa kế và người thừa kế. Pháp luật nước ta chia những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật thành hàng thừa kế phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước.

Với mục tiêu đảm bảo đúng đắn quyền lợi của các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, củng cố, phát triển tình đoàn kết thương yêu lẫn nhau trong nội bộ gia đình, góp phần xây dựng gia đình mới dân chủ, hạnh phúc, kế thừa những văn bản trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Điều 676 vẫn quy định ba hàng thừa kế, tuy nhiên có sự bổ sung, mở rộng để phù hợp với yêu cầu phát triển của đời sống xã hội.

2.3.1. Hàng thừa kế thứ nhất

Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Có thể thấy ở hàng thừa kế thứ nhất tồn tại cả ba mối quan hệ: huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng, phản ánh đầy đủ nhất bản chất của hàng thừa kế.

Ở hàng thừa kế thứ nhất: Gồm những người thuộc các bậc khác nhau: Bề trên có cha để, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người chết; ngang hàng thì có vợ, chồng; bề dưới có các con.

Những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau và là đại diện đương nhiên của nhau theo Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Nếu họ vi phạm nghĩa vụ theo Luật Hôn nhân và gia đình và Bộ luật Dân sự thì họ bị tước quyền thừa kế theo Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 06/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí