Lịch Sử Phát Triển Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Ở Việt Nam:

bào chữa. Công tố viên và Luật sư bào chữa có toàn quyền trong việc quyết định mời nhân chứng, quyết định những chứng cứ được đưa ra phiên tòa phục vụ cho hoạt động buộc tội hoặc gỡ tội. HĐXX đóng vai trò trọng tài trong lập, ra phán quyết trên cơ sở chấp thuận những chứng cứ có căn cứ của các bên. HĐXX hầu như không đặt câu hỏi với bị cáo và người làm chứng vì cho rằng có thể ảnh hưởng đến tính vô tư, trung lập của Tòa án. Kết thúc thủ tục tranh tụng, phiên tòa chuyển sang phần nghị án. Đối với những phiên tòa sơ thẩm không có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn, Thẩm phán có toàn quyền trong việc quyết định hình phạt đối với bị cáo. Đối với phiên tòa sơ thẩm có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn, Luật TTHS quy định Bồi thẩm đoàn có thẩm quyền phán quyết hành vi của bị cáo là có tội hay không có tội, Thẩm phán có quyền quyết định áp dụng hình phạt với bị cáo trong trường hợp phán quyết của Bồi thẩm đoàn tuyên bị cáo có tội.

Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trong tất cả các vụ án hình sự mà bị cáo bị buộc tội có thể phải chịu mức hình phạt từ 6 tháng tù trở lên thì người đó có quyền Hiến định là được xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Thêm vào đó, hầu hết các cơ quan tư pháp bao gồm cả các Tòa án liên bang đều cho phép Thẩm phán hoặc Công tố viên phủ quyết quyền khước từ xét xử có Bồi thẩm đoàn của bị cáo, do đó, theo cách hiểu chung nhất, xét xử không có Bồi thẩm đoàn chỉ xảy ra đối với những vụ án nghiêm trọng khi thủ tục đó được các bên đồng ý.

Hệ thống pha trộn được thực hiện trên cơ sở kết hợp hai hệ thống tranh tụng và xét hỏi. Nhìn từ góc độ mục đích tố tụng cũng như phương cách để đạt được mục đích đó, thì mỗi hệ thống tranh tụng (tranh tụng hay xét hỏi) đều có mặt tích cực và hạn chế nhất định. Hệ thống tố tụng pha trộn là sự kết hợp giữa hai hệ thống tranh tụng trên. Tùy theo việc quốc gia thuộc vào hệ

thống tư pháp nào (án lệ hay lục địa) mà “dấu ấn” của hệ thống tố tụng trong hệ thống tố tụng pha trộn nổi rõ hơn.

Nhật Bản là nước mà hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng bởi hai truyền thống pháp luật (cụ thể là Đức và Hoa Kì). Trong TTHS, vấn đề tranh tụng cũng được thể hiện qua một số điểm cụ thể như: áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS; người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền im lặng và có quyền có Luật sư bào chữa; việc ra lệnh tạm giam do Thẩm phán quyết định. Khi nhận được đề nghị của Công tố viên, Thẩm phán phải nghiên cứu các tài liệu có liên quan, xem xét chứng cứ và tiến hành thẩm vấn riêng người bị tình nghi [57].

Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Qua nghiên cứu hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở một số quốc gia cho thấy: Hiện nay, ở các nước dù theo mô hình tố tụng nào thì trong đó cũng đều có yêu tố tranh tụng. Đây là cơ chế tố tụng có hiệu quả đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Tùy vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có những lựa chọn mô hình tố tụng riêng. Sự khác biệt giữa mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn ở chỗ trong mô hình thẩm vấn, Thẩm phán giữ vai trò tích cực trong toàn bộ quá trình xét xử kể từ hoạt động thẩm vấn, điều tra công khai tại phiên tòa đối với các bên có liên quan và ra phán quyết. Còn trong mô hình tranh tụng thì Công tố viên và Luật sư bào chữa sẽ kiểm tra nhân chứng và thẩm vấn tất cả các bên, Thẩm phán đóng vai trò thụ động hơn, làm trọng tài cho công tố viên và Luật sư tranh luận [2].

1.4.3. Lịch sử phát triển tranh tụng tại phiên tòa ở Việt Nam:

Hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và hoạt động theo truyền thống luật lục địa. Tố tụng nước ta được thực hiện theo hệ thống pha trộn thiên về xét hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng nước ta rõ nét hơn. Việc nghiên cứu bản chất của tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta phải được xem xét từ góc độ tranh tụng trong tố tụng xét hỏi.

1.4.3.1. Từ giai đoạn 1945 đến năm 1960:

Giai đoạn này chúng ta vừa giành được độc lập và đang trong quá trình hình thành, xây dựng bộ máy nhà nước của chế độ mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Về các quy định liên quan đến tranh tụng trong thời kì này:

Về chức năng của các chủ thể tố tụng, tuy mới là giai đoạn đầu của quá trình hình thành nền tư pháp của chế độ mới, song các quy định thời kỳ này cũng đã từng bước xác định được vị trí của từng chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng, đặc biệt là sự phân định giữa chức năng của Công tố và Thẩm phán. Điều 5 Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 (về việc thiết lập các Tòa án quân sự) đã xác định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong TTHS “ngồi xử có Chánh án và hai Hội thẩm… Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự hay hai Ủy viên của Ban trinh sát. Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho…” [60, tr.401]. Điều 2 Sắc lệnh số 7 ngày 15/01/1946 bổ khuyết Sắc lệnh ngày 13/9/1945 như sau: “Đứng buộc tội tùy quyết định của Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một Ủy viên của Ban Tư pháp sẽ là một Ủy viên quân sự hay một ủy viên của Công tố viện do ông Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ định” [60, tr.412]. Tính chất trọng tài, độc lập của Tòa án, của Thẩm phán cũng được nhấn mạnh tại Điều 74 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm phán “Tòa án Tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị Thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư pháp” [60, tr.427].

Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 6

Theo Hiến pháp 1946, các chức năng của các chủ thể trong TTHS cũng đã được quy định khá rõ. Điều 65 Hiến pháp 1946 quy định về sự tham gia của phụ thẩm nhân dân và Điều 69 quy định về việc thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Điều 67 quy định các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt; người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư bào chữa [45].

Vai trò bào chữa của Luật sư được đặc biệt nhấn mạnh trong nhiều văn bản pháp luật. Điều 2 Sắc lệnh số 46-SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các Đoàn Luật sư quy định các Luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 69-SL ngày 18/6/1949 quy định rõ: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các Tòa án thường và Tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bào chữa cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận” (Điều 1), “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử một người ra bào chữa cho bị can” (Điều 2), “Người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao của bị can hay của thân nhân bị can. Người nào phạm vào điều này sẽ bị truy tố và trừng phạt như tội lừa đảo” (Điều 3).

Về trình tự, thủ tục tranh tụng, do đây là giai đoạn hình thành hệ thống tư pháp non trẻ của chế độ mới nên các quy định về tranh tụng (mặc dù chưa rõ nét) mới chỉ tập trung ở việc quy định về quyền bào chữa của bị can bị cáo quyền được tranh luận tại phiên tòa (tố tụng thời kì này được xây dựng trên mô hình tố tụng xét hỏi nên tranh tụng chỉ biểu hiện trong giai đoạn xét xử). Tại Điều 5 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức các Tòa án quân sự quy định các hình thức mà bị cáo có thể lựa chọn để thực hiện quyền bào chữa “Bị cáo có quyền tự bênh vực lấy hay nhờ Luật sư hoặc một người khác

bênh vực cho”. Điều thứ 44 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán quy định “Trong việc đại hình, nếu trước Tòa thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một Luật sư để bào chữa cho hắn” [60, tr.424]. Điều 31 (về Tòa án đệ nhị cấp) và Điều 41 (về Tòa án thượng thẩm) của Sắc lệnh này quy định “Sau khi nghe các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông Biện lý (Chưởng lý), và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán ( Hội thẩm) và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào trong nghị xử để quyết định về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội”. [60, tr.426,427].

Nghị định số 82-TP/NĐ ngày 25/02/1946 của Bộ Tư pháp đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong các giai đoạn TTHS khác nhau, các quy định về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa…, theo đó bị cáo có quyền “tự bênh vực lấy hay nhờ Luật sư hoặc một người khác bênh vực. Ông Chánh án theo lời yêu cầu của bị cáo có thể cử một người ra bênh vực bị cáo” (Điều 8); nếu bị cáo “xin cử một người bênh vực thì ông Chánh án sẽ ra mệnh lệnh cử” (Điều 11); Luật sư hay người bênh vực cho bị cáo có quyền xem hồ sơ vụ án tại Phòng lục sự, có quyền “giao thiệp thẳng với bị cáo bằng thư từ hay tới thăm” (Điều 12); bị cáo và những người bênh vực có quyền yêu cầu Tòa án đặt câu hỏi để người bênh vực có quyền yêu cầu Tòa án đặt câu hỏi để thẩm vấn những người làm chứng (Điều 16), tham gia vào quá trình tranh tụng thông qua việc biện luận và nói lời sau cùng (Điều 19)…

Khi Hiến pháp 1946 ra đời, một số nguyên tắc cơ bản của TTHS nước ta lúc bấy giờ cũng ghi nhận nhiều nguyên tắc thể hiện được tư tưởng tranh tụng trong TTHS như nguyên tắc: tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 7); các phiên tòa án đều phải công khai, trừ trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67)…

Tuy còn nhiều hạn chế (như các chức năng trong tố tung chưa phân định rõ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; các quyền và nghĩa vụ của các chủ thẻ tham gia tranh tụng và điều kiện bảo đảm khác chưa được xác định đầy đủ…) nhưng các nguyên tắc và quy định nêu trên là cơ sở pháp lý để từng bước phát triển và hoàn thiện chế định tranh tụng ở nước ta [56].

1.4.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988:

Thời kì này các quy định liên quan đến tranh tụng có sự phát triển lên một bước rõ nét, cụ thể:

Điều 97 Hiến pháp năm 1959 cũng như Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1960 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [38]. Các văn bản này cũng đã ghi nhận một loạt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND các cấp. Vai trò của Tòa án trong tranh tụng thể hiện ở chỗ việc xét xử ở phiên tòa là giai đoạn mang tính quyết định của vụ án, giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ thủ tục tố tụng… Khi xét xử các Thẩm phán phải chú ý đầy đủ cả hai mặt: buộc tội và gỡ tội mà không được thiên về một bên nào… Tòa án phải có trách nhiệm bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đặc biệt phải đảm bảo cho các bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình trước Tòa án.

Điều 7 Luật tổ chức TAND 1960 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ Luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được đoàn thể chấp nhận bào chữa cho mình, Khi cần thiết, TAND chỉ định người bào chữa cho bị cáo” [38]. Thông qua quy định này có thể nhận thấy pháp luật nước ta thời kì này đã coi quyền bào chữa của bị cáo là một trong những quyền quan trọng nhất của bị cáo trong TTHS, được thể hiện như quyền đối trọng với quyền

buộc tội của VKSND. Trong giai đoạn này các tổ chức Luật sư và chế định bào chữa viên nhân dân đã được thiết lập để giúp đỡ bị can, bị cáo trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS. Pháp luật quy đinh Tòa án phải cử người bào chữa cho bị cáo trong một số trường hợp như: bị cáo là vị thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; bị cáo có thể bị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình; vụ án có tính chất quan trọng, phức tạp…

Luật tổ chức TAND 1960 cũng quy định quyền của bị can, bị cáo được tống đạt cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử; đề xuất chứng cứ và thỉnh cầu, xin thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa; quyền được nói lời cuối cùng; được kháng tố… Người bào chữa có quyền được gặp riêng bị cáo tạm giam; được nghiên cứu hồ sơ vụ án; đề xuất chứng cứ và thỉnh cầu; đề nghị thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân; tham gia thẩm vấn và trình bày lời bào chữa, kháng tố theo sự ủy nhiệm của bị cáo…

Luật tổ chức VKSND 1960 quy định VKSND được thành lập thành một hệ thống độc lập thay thế Viện công tố trước đây để thực hiện chức năng buộc tội (truy tố và thực hành quyền công tố). Người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ… có quyền đưa ra các chứng cứ buộc tội, các yêu cầu bồi thường thiệt hại, tranh luận tại phiên tòa…, kháng tố tăng nặng hình phạt hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo…[39].

Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1981 về cơ bản vẫn ghi nhận lại các nguyên tắc của TTHS đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 1960.

Như vậy trong giai đoạn này, các quy định về tranh tụng trong TTHS mặc dù còn được quy định tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau nhưng đã có

nhiều quy định nhằm bảo đảm cho việc tranh tụng bình đẳng, công khai trong quá trình tố tụng, điển hình là các quy định về suy đoán vô tội (không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án); bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo; trách nhiệm chứng minh trong vụ án của các chủ thể; các quy định về bảm đảm quyền bình đẳng của bên buộc tội và bên gỡ tội trong TTHS… So với giai đoạn trước, pháp luật về TTHS nói chung, các quy định về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các quy định về tranh luận trước Tòa…, đã có sự phát triển vượt bậc. Tư duy pháp lý thời kì này cũng có những thay đổi lớn theo hướng xây dựng mô hình tố tụng xét hỏi (có ảnh hưởng sâu sắc từ mô hình tố tụng Liên Xô cũ) chặt chẽ hơn và phát triển thành hệ thống hoàn chỉnh hơn so với giai đoạn trước. Trên thực tế, quyền bào chữa và tranh luận trước tòa của bị can, bị cáo giai đoạn này cũng từng bước được bảo đảm tốt hơn so với giai đoạn trước.

1.4.3.3. Giai đoạn từ khi có BLTTHS năm 1988 đến trước khi có BLTTHS năm 2003:

Trong giai đoạn này, các quy định về tranh tụng đã tương đối rõ nét hơn so với các giai đoạn trước. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đặc biệt là BLTTHS năm 1988 (được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992 và 2000) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm việc tranh tụng trong TTHS. Các quy định này có thể phân thành các nhóm sau:

Nhóm thứ nhất, các quy định mang tính nguyên tắc: BLTTHS năm 1988 đã thể hiện khá rõ các nguyên tắc có liên quan trực tiếp và bảo đảm cho việc tranh tụng trong TTHS như: Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Điều 10); xác định sự thật vụ án (Điều 11); bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Điều 12); Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí