cương thẩm vấn, thành phần những người cần triệu tập tham gia phiên tòa và dự kiến các tình huống phát sinh.
Tại phần thủ tục, đây là tiền đề cho các giai đoạn sau nên thực hiện tốt việc chuẩn bị thì chắc chắn chất lượng tranh tụng sẽ đạt mục đích, chất lượng cao. Ở giai đoạn này, Chủ tọa phiên tòa tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi tiến hành tranh tụng như: kiểm tra sự có mặt, vắng mặt (lý do vắng mặt) của những người được triệu tập tham gia vào quá trình chứng minh tại phiên tòa. HĐXX xem xét và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của các bên về hoãn phiên tòa, triệu tập thêm người làm chứng, bổ sung chứng cứ mới…
Giai đoạn 2: Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án.
Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên công bố cáo trạng và kết thúc trước khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Đây là giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án do HĐXX tiến hành với sự tham gia của Kiểm sát viên, Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Thông qua việc xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, công bố lời khai của những người vắng mặt tại phiện tòa, công bố các kết luận giám định, các tài liệu có liên quan và xem xét vật chứng, các thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, Luật sư tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó, HĐXX xác định có tội phạm xảy ra hay không, có đúng bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội hay không, xem xét động cơ mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hậu quả của tội phạm… để ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với diễn biến tại phiên tòa. Kết quả tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần tranh luận.
Giai đoạn 3: Tranh luận giữa các bên:
Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa
các bên tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và kết thúc trước khi HĐXX vào phòng nghị án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy định của pháp luật đề đề xuất hướng xử lý phù hợp. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tiến hành đánh giá chính thức công khai giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án để đưa ra quan điểm, nhận định, kết luận của mình về vụ án; các bên thể hiện rõ quan điểm của mình là chấp nhận hay bác bỏ các chứng cứ, quan điểm hay kết luận của “bên kia” về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án. Nội dung tranh tụng trọng tâm của các bên được thể hiện trong lời luận tội của Kiểm sát viên, lời bào chữa của Luật sư (lời tự bào chữa của bị cáo), ý kiến tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc của chính bản thân họ và lời đối đáp qua lại giữa các bên. Ở giai đoạn này, HĐXX không trực tiếp tham gia vào quá trình tranh luận giữa các bên mà nhiệm vụ chủ yếu của HĐXX, cụ thể là của Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa là điều khiển quá trình tranh tụng để hướng sự tranh luận của các bên tập trung vào việc làm sáng tỏ quan điểm còn mâu thuẫn với nhau và ghi nhận quan điểm, ý kiến của các bên tranh tụng về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
Giai đoạn 4: Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng:
Đây là giai đoạn có vai trò quyết định toàn bộ quá trình tranh tụng. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm HĐXX nghị án và kết thúc sau khi tuyên án. Nghị án và tuyên án là giai đoạn HĐXX đánh giá và công bố kết quả tranh tụng. HĐXX thực hiện hoạt động này một cách độc lập tại phòng nghị án, không có sự tham gia của bất cứ ai. Tại đây các thành viên của HĐXX thảo luận về tính hợp pháp, tính liên quan và tính khách quan của các chứng cứ đã
được kiểm tra xác minh tại phiên tòa; xem xét các yêu cầu, đề nghị và quan điểm của các bên về vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật. Sau khi thảo luận, HĐXX tiến hành biểu quyết theo đa số về từng vấn đề cụ thể của vụ án. HĐXX chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm, yêu cầu, đề nghị của các bên buộc tội, bên bào chữa và quyết định về các vấn đề cụ thể cần giải quyết trong vụ án như về tội danh, về điều, khoản, điểm của BLHS cần áp dụng cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cần áp dụng với bị cáo; mức hình phạt; mức bồi thường thiệt hại hoặc HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội… Việc đánh giá chính thức kết quả tranh tụng của các bên về vụ án được HĐXX thể hiện bằng phán quyết ở dạng bản án hoặc quyết định. Bản án hoặc quyết định của HĐXX là văn bản pháp lý ghi nhận kết quả tranh tụng giữa các bên về vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Phán quyết này là nhân danh Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, được Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa tuyên đọc công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. HĐXX chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã thẩm tra tại phiên tòa và chỉ những vấn đề đã được thẩm tra tại phiên tòa mới được dùng làm căn cứ để nhận định, đánh giá, kết luận và quyết định.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 2
- Vai Trò Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự:
- Bản Chất Của Điều Khiển Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự:
- Lịch Sử Phát Triển Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Ở Việt Nam:
- Giai Đoạn Từ Khi Có Bltths Năm 2003 Đến Nay:
- Tình Hình Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Tỉnh Bắc Ninh Giai Đoạn 2008-2013:
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Các giai đoạn của quá trình tranh tụng có mối liên hệ chặt chẽ và biện chứng không thể tách rời. Mỗi giai đoạn này tuy có sự khác nhau về tính chất, mức độ, nội dung và hình thức nhưng kết quả của giai đoạn trước là tiền đề cho hoạt động của các chủ thể ở giai đoạn tranh tụng tiếp theo.
Tóm lại, tổng hợp từ những nội dung đã nêu và phân tích ở trên có thể khẳng định rằng đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự thể hiện qua một số nét chính sau:
Thứ nhất, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu. Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, là sự tập trung nhất của hệ thống tố tụng. “Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công
tố viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính – tư pháp không được điều chỉnh bởi luật tố tụng hình sự” [12]. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật TTHS. Vì vậy, mọi điều tra của Luật sư và của cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều cách khác nhau, với những phương pháp thu thập chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét đánh giá của HĐXX thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Tòa án.
Thứ hai, trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng rõ rệt đó là bên buộc tội và bên bị buộc tội. Tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, VKS và Luật sư hoàn toàn bình đẳng nhau, họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. VKS dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của Nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội cho bị cáo. Còn bên gỡ tội là bị cáo và những Luật sư của bị cáo cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề của vụ án.
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò của người trọng tài. Thẩm phán không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ mà các bên đưa ra, điều khiển việc tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết cuối cùng.
Thứ tư, hoạt động tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn (Hội thẩm nhân dân): Do vai trò của Thẩm phán tại phiên tòa là người trọng tài nên thông thường phải có Bồi thẩm đoàn (Hội thẩm nhân dân) tham gia tố
tụng. Đoàn bồi thẩm không tham gia vào quá trình tranh tụng nhưng họ cùng Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa điều khiên tranh tụng tại phiên tòa và có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó Thẩm phán sẽ quyết định về vụ án. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với Hội thẩm.
1.4. Tìm hiểu về tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở một số quốc gia trên thế giới.
Mỗi hệ thống tố tụng lại có phương cách xác định sự thật khác nhau, cơ sở pháp lý khác nhau, nên phạm vi, tính chất và mức độ tranh tụng cũng có những điểm khác nhau. Căn cứ vào phương cách mà tố tụng được thực hiện, cơ sở pháp lý cho việc thực hiện phương cách đó, người ta phân tố tụng tư pháp, đặc biệt là tố tụng hình sự thành các hệ thống khác nhau: hệ thống tranh tụng, hệ thống xét hỏi (hay thẩm vấn) và hệ thống pha trộn. Và trong mỗi hệ thống đó, mức độ tranh tụng cũng khác nhau.
1.4.1. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống châu Âu lục địa:
Hệ thống xét hỏi thường được sử dụng trong các nước theo hệ thống luật châu Âu lục địa (Continental law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là cố gắng xác định sự thật khách quan của vụ án để từ đó ra phán quyết. Vì vậy, quá trình tố tụng được thực hiện bằng văn bản và bằng lời, bao gồm cả giai đoạn điều tra và xét xử tại phiên tòa. Tòa án thực hiện việc chứng minh vụ án trên cơ sở sử dụng kết quả đóng vai trò quyết định trong xác định sự thật khách quan tại phiên tòa. Vì vậy thủ tục tố tụng tại phiên tòa đơn giản hơn, ít khắt khe hơn về mặt hình thức: việc xét xử không nhất thiết phải có mặt tất cả những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận. Phán quyết của Tòa án được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm của Tòa án về sự thật khách quan
của vụ án, chứ không phải là kết qủa của việc ai thuyết phục tòa án tốt hơn tại phiên tòa …
Hiện nay các quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã tiếp thu một phần các yếu tố của hệ thống pháp luật tranh tụng vào các thủ tục tố tụng hình sự của mình, điển hình là cộng hòa Pháp. Ngày 15/6/2000 Pháp đã ban hành "Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân” đã bổ sung một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn của các bên tại phiên toà và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [6, tr33]. Trong pháp luật TTHS của Pháp thể hiện một số nội dung tranh tụng tại phiên tòa sau:
- Trong quá trình tiến hành xét xử, Công tố viên hoặc Luật sư của các bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho các nhân chứng và các bên tham gia tố tụng mà không cần sự cho phép của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa.
- Các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu Chủ tọa phiên tòa triệu tập những người làm chứng mới đến khai báo trước tòa một cách không hạn chế.
- Về hình thức xét hỏi tại phiên tòa đại hình cũng giống với Tòa án của hệ thống tranh tụng. Tuy nhiên thay vì ba Thẩm phán ngồi xét xử như ở tòa tiểu hình, tòa đại hình có một bồi thẩm đoàn gồm 9 thành viên được lựa chọn một cách ngẫu nhiên từ danh sách cử tri, các thủ tục và hình thức cũng nhiều hơn so với Tòa tiểu hình. Phiên tòa bắt đầu bằng việc Chánh tòa tiến hành thủ tục nhận dạng bị cáo và giải thích tóm tắt các trình tự tố tụng và thủ tục tại phiên tòa, tiếp đến theo thủ tục lựa chọn thành viên Bồi thẩm đoàn. Bị cáo có quyền chọn 5 vị, công tố lựa chọn 4 vị. Sau khi Thư ký tòa đọc bản luận tội thì từ thời điểm đó bắt đầu thẩm vấn bị cáo, các Bồi thẩm viên có quyền lựa chọn và đặt ra các câu hỏi và thông thường quá trình đặt câu hỏi sẽ tăng dần lên theo diễn biến của phiên tòa do các bên tham gia tố tụng đặt câu hỏi trực tiếp không cần sự cho phép của Chánh tòa. Chánh tòa có thể bày tỏ quan điểm
của mình về mọi câu hỏi trừ vấn đề có tội hay không có tội. Các bồi thẩm thì không bị ràng buộc bởi những quy định nghiêm ngặt như vậy và Chánh tòa có toàn quyền tự quyết để tiến hành tất cả những bước cần thiết nhằm khám phá sự thật, bao gồm cả việc cho gọi những nhân chứng không có trong danh sách mà các bên tham gia tố tụng yêu cầu đến trước tòa để thẩm vấn.
Cũng như Pháp, Đức là nước điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng trong thời gian gần đây, nhiều quy định liên quan đến tranh tụng đã được ghi nhận trong BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức. Điều 137 quy định bị can, bị cáo có thể nhận sự giúp đỡ của Luật sư bào chữa tại bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, tối đa ba Luật sư bào chữa có thể được lựa chọn. Điều 140, 141 còn quy định những trường hợp bắt buộc phải có Luật sư bào chữa và việc chỉ định Luật sư bào chữa. Trong quá trình điều tra, nếu một người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị bắt giữ thì theo Điều 115, anh ta phải được mang tới chỗ Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức, Thẩm phán sẽ xem xét việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn hơn ngày tiếp theo. Tại phiên xét xử, cơ quan công tố, bị can và Luật sư có quyền tham gia, được thông báo về thời gian, địa điểm xét xử. Các bên tham gia sẽ được phát biểu ý kiến trong phiên xét xử. Điều 136 và 163a quy định tại thời điểm lấy lời khai lần đầu tiên của bị cáo, thì bị cáo sẽ được thông báo về tội danh bị khởi tố và các điều khoản luật hình sự áp dụng, có quyền trình bày ý kiến đối với lời buộc tội hoặc không phát biểu bất cứ điều gì về lời buộc tội ngay trước khi tiến hành kiểm tra, trao đổi với Luật sư bào chữa do anh ta lựa chọn. Tại phiên tòa chính thức, sau khi nghe công tố viên trình bày bản cáo buộc, bị cáo có thể lựa chọn việc trả lời cáo buộc hoặc không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về cáo buộc. Bị cáo cũng có quyền yêu cầu Tòa án mở rộng việc thu thập chứng cứ. Sau khi tiến hành thu thập chứng cứ kết thúc, công tố viên và bị cáo sẽ được tạo điều kiện để thể hiện quan điểm tranh luận của mình về yêu
cầu đã đưa ra. Công tố viên có quyền trả lời, bị cáo sẽ nói lời sau cùng. Cho dù bị cáo có người bào chữa nói thay, bị cáo sẽ được hỏi về vấn đề có bổ sung thêm hay không đối với việc bào chữa cho mình. (Điều 243, 244, 258) [8].
1.4.2. Tranh tụng trong tố tụng hình sự của các nước theo hệ thống pháp luật Anh- Mỹ:
Hệ thống tranh tụng thường được sử dụng trong các nước có hệ thống luật án lệ (Common law). Mục đích chính của tố tụng theo hệ thống này là phán quyết trên cơ sở thỏa mãn với sự thật pháp lý mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Theo hệ thống này, hoạt động tư pháp thực chất được bó gọn trong hoạt động xét xử tại phiên tòa với các quy định nghiêm ngặt (nhiều khi đến mức máy móc) về thủ tục tố tụng. Tính tranh tụng trong xét xử vụ án được thực hiện một cách triệt để, sự thật chỉ được xác lập tại phiên tòa. Tòa án đóng vai trò là người trọng tài và qua phiên tòa xác định xem “sự thật” của ai thuyết phục hơn để qua đó phán xét. Quyết định của Tòa án dường như được thực hiện không phải trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án mà là trên cơ sở sự thật được các bên chứng minh tại phiên tòa có tính thuyết phục cao hơn. Vì vậy, Tòa án không xét hỏi, không tranh luận và cũng không gợi ý tranh luận, mà chỉ là người trọng tài điều khiển phiên tòa, đóng vai trò thụ động trong quá trình chứng minh, nhưng lại toàn quyền phán quyết về vụ án. Toàn bộ quá trình tố tụng được thực hiện bằng miệng vì vậy, tại phiên tòa phải có mặt tất cả những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng, các vật chứng phải được các bên đưa ra xem xét tại phiên tòa.
Thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự của Vương quốc Anh, Hoa Kỳ áp dụng triệt để nguyên tắc tranh tụng đối kháng. Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phiên tòa chuyển ngay sang phần tranh tụng quyết liệt giữa bên buộc tội (Công tố viên) và bên Luật sư bào chữa. Trách nhiệm chứng minh tội phạm và người phạm tội hoàn toàn thuộc về Công tố viên và Luật sư