Vai Trò Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự:

được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng làm sao thuyết phục các quan tòa tin được rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội cố gắng và phải sử dụng mọi lý lẽ chứng cứ để bác bỏ lời buộc tội do bên Công tố đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo phải bảo vệ thân chủ bằng mọi giá.

Như vậy, xét về cách hiểu thông thường nhất, “Tranh tụng là việc từng bên đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia” [20].

1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa:

Theo từ điển luật học 2006, khái niệm tranh tụng tại phiên tòa được hiểu như sau: “Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung tâm, trọng tài” [58].

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam năm 2003, những người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Thời gian tranh luận không bị hạn chế. Nếu qua tranh luận mà xét thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX có thể quyết định trở lại việc xét hỏi xong lại tiếp tục tranh luận.

Như vậy, tranh tụng tại phiên tòa bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xác định sự thật của vụ án bằng cách điều tra công khai, chính thức về vụ án, nghe các bên tranh luận về giải quyết vụ án từ góc độ nội dung cũng như pháp luật áp dụng để ra phán quyết.

1.2. Vai trò tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:

Tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nội dung có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS), là vấn đề có tính thời sự

được xã hội quan tâm. Tranh tụng tại phiên tòa hình sự không chỉ là yêu cầu của việc bảo đảm tính dân chủ, công bằng giữa những người tham gia tố tụng với Viện kiểm sát (VKS), mà kết quả tranh tụng tại phiên tòa là căn cứ để Hội đồng xét xử (HĐXX), Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự xác định sự thật vụ án. Thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2003 và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” trong đó xác định:

Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết qủa tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định.

Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng, tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa… [3].

Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 3

Tranh tụng trong TTHS có một ý nghĩa rất đặc biệt, nó thể hiện rõ nét trong giai đoạn xét xử tại tòa và là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào tiến trình TTHS, thực hiện đầy đủ và đúng đắn các chức năng của mình. Một số học giả còn cho rằng, tranh tụng chính là công cụ quan trọng

nhất để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, nguyên tắc tranh tụng còn liên quan chặt chẽ đến các nguyên tắc khác của TTHS đặc biệt là các nguyên tắc như suy đoán vô tội, quyền có người bào chữa của bị cáo và xác định sự thật khách quan của vụ án…“Các nguyên tắc này tác động qua lại với nhau và là điều kiện bảo đảm cho nhau cũng như toàn bộ tiến trình TTHS” [4].

Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Do đó tranh tụng tại phiên tòa có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định trong giải quyết vụ án, điều đó thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công khai tại phiên tòa. Việc chứng minh được các chủ thể có quyền, lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa) thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh luận.

Thứ hai, phiên tòa đảm bảo sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng được quy định và được bảo đảm thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên tòa khó có thể xảy ra các trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng như bức cung, dùng nhục hình…

Thứ ba, phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đắn pháp luật. Qua phân tích tranh luận đề nghị của các bên tham gia tố tụng, Tòa án lựa chọn phương án áp dụng pháp luật chính xác nhất để giải quyết vụ án.

Thứ tư, phiên tòa là nơi tốt nhất thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Thông qua các thủ tục tại phiên tòa, qua tranh luận và công bố bản án, Tòa án giúp cho những người tham gia tố tụng cũng như những người tham dự phiên tòa nâng cao hiểu biết pháp luật.

1.3. Đặc điểm tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:

1.3.1. Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa:

Các nhà nghiên cứu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới chứng minh rằng tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học cổ đại nổi tiếng người Hy Lạp Plato. Ông cho rằng “bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện và cả hai bên sẽ cùng nhìn ra sự thật” [25]. Ý tưởng này của Plato được các Luật gia Hy Lạp cổ đại phát triển và xây dựng thành là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS ở Nhà nước Hy Lạp cổ đại. Sau đó, nguyên tắc này được đưa vào áp dụng ở La Mã và các quốc gia cổ đại khác ở Châu Âu với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục” [18].

Trước đây, với quan niệm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của TTHS tư sản nên vấn đề này không được khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, về mặt lý luận, tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ “tranh tụng” cũng chưa bao giờ được dùng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Những năm gần đây, tranh tụng đã được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tranh tụng nói chung và tranh tụng tại phiên tòa hình sự nói riêng là một vấn đề mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở nước ta. Trong quá trình xây dựng BLTTHS sửa đổi, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết số 08 thì vấn đề tranh tụng được đưa ra tranh luận sôi nổi.

Hiện nay, trên thực tế đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau giữa những người làm công tác thực tiễn và nghiên cứu khoa học về tranh tụng trong TTHS ở chỗ xác định tranh tụng có phải là một nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam không? Có thể phân các quan điểm này thành hai nhóm chính sau đây:

Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng tố tụng tranh tụng là một kiểu tố tụng hình được đặt ra nhằm giải quyết những tranh chấp, xung đột quan điểm

về thực tế của vụ án và về pháp luật giữa Công tố viên - Đại diện cho bên buộc tội và Luật sư - Đại diện cho bên gỡ tội trong vụ án hình sự. Tố tụng tranh tụng về thực chất là sự đối tụng giữa các bên đối lập theo quy định của tố tụng mà Tòa án là người trọng tài, nghĩa vụ chứng minh được san sẻ cho tất cả các bên (bên buộc tội và bên bào chữa). Về cơ bản, các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 là phù hợp và trong thực tiễn áp dụng không có gì vướng mắc lớn. Nghị quyết số 08-NQ/TW nhấn mạnh đến vấn đề tranh tụng chỉ là nhằm khắc phục tình trạng ở một số phiên tòa hiện nay đó là Kiểm sát viên quá thụ động, ỷ lại vào HĐXX nên không tích cực tham gia xét hỏi cũng như tranh luận với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Về phía HĐXX lại quá phụ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên không quan tâm xem xét các chứng cứ, các yêu cầu và quan điểm bào chữa mà Luật sư và bị cáo đưa ra tại phiên tòa. Vì vậy, vấn đề quan trọng là không phải là sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thủ tục tại phiên tòa mà chỉ cần chủ tọa phiên tòa tăng thời gian để Luật sư và bị cáo được trình bày các ý kiến của mình tại phiên tòa, không được ngắt lời hay hạn chế thời gian phát biểu của họ, bảo đảm sự tranh luận dân chủ giữa Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác là đủ. Nâng cao tính tranh tụng trong quá trình xét xử có nghĩa là nâng cao hơn nữa hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Vì vậy, không nên quy định trong BLTTHS tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS.

Nhóm quan điểm thứ hai thì cho rằng: Tư pháp hình sự ở một số nước dù được tổ chức theo mô hình tố tụng nào đi nữa (tố tụng xét hỏi hay tố tụng tranh tụng), thì trong TTHS cũng đều tồn tại ba chức năng với ba nhóm chủ thể: bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Do đó, “tranh tụng là nguyên tắc quan trọng, nguyên tắc đặc trưng của hoạt động tư pháp và là đặc trưng nổi bật nhất của tư pháp hình sự” [2]., tùy thuộc vào sự thừa nhận và sự thể hiện

nội dung của nguyên tắc này (theo hướng mở rộng hay thu hẹp) trong các giai đoạn tố tụng mà người ta phân biệt mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng xét hỏi. Còn tranh luận chỉ là một phần (một thủ tục) của phiên tòa hình sự, mà trong đó các bên buộc tội và bên bào chữa đánh giá kết qủa xét hỏi trên cơ sở phân tích và đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị HĐXX về các vấn đề cần giải quyết trong nội dung vụ án.

Tôi đồng tình với quan điểm cho rằng trong BLTTHS của Việt Nam cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của TTHS để phân định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử giữa các bên và Tòa án. Tranh luận chỉ là sự thể hiện đậm nét nhất, tập trung nhất nội dung nguyên tắc tranh tụng, khái niệm “tranh luận” có nội hàm hẹp hơn khái niệm “tranh tụng”. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS không đồng nhất với việc xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo mô hình tố tụng tranh tụng.

Với ý nghĩa là một nguyên tắc của TTHS, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự đòi hỏi một số nội dung sau đây phải được thể hiện:

Một là, khẳng định sự tách bạch giữa các chức năng cơ bản của TTHS (buộc tội, bào chữa và xét xử). Những chức năng này do các chủ thể khác nhau thực hiện. Không thể có sự chồng lấn trong việc thực hiện các chức năng tố tụng giữa các chủ thể, trong đó chức năng buộc tội thuộc về bên công tố, chức năng gỡ tội thuộc về bên Luật sư và chức năng xét xử thuộc về Tòa án.

Hai là, bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép nhằm thực hiện đầy đủ chức năng của mình ở các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử.

Ba là, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền của người bị buộc tội trong tất cả các giai đoạn tố tụng nhất là giai đoạn xét xử.

Bốn là, đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng, kể từ khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra hoặc có các hoạt động bắt, giam, giữ người bị tình nghi.

Năm là, khẳng định nghĩa vụ của Tòa án tạo mọi điều kiện tốt nhất để các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, phải xem xét vô tư, khách quan mọi chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Bản án của Tòa án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ giữa các bên [24].

Nguyên tắc tranh tụng chính là điều kiện để bảo đảm việc xác định đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, hình thức tranh tụng giúp cho việc kiểm tra tại phiên tòa từng chứng cứ, từng chi tiết của vụ án ở cả hai góc độ buộc tội và gỡ tội. Nhờ đó Tòa án có thể nghiên cứu, đánh giá tất cả những gì mà bên buộc tội khẳng định cũng như tất cả những gì mà bên gỡ tội phản bác. Trên cơ sở đó xác định đúng người phạm tội để trừng trị đồng thời không làm oan người vô tội, tạo tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Tuy nhiên mức độ và phạm vi áp dụng nguyên tắc này trong pháp luật TTHS ở các nước là khác nhau, phụ thuộc vào quan niệm, truyền thống lập pháp, tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp, đội ngũ Luật sư bào chữa và các điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, trình độ dân trí…

1.3.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng:

Hệ tố tụng tranh tụng được xây dựng và vận hành trên cơ sở áp dụng triệt để nguyên tắc tranh tụng. Theo nguyên tắc này thì trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Ba chức năng này đan quyện qua lại với nhau và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Mỗi chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai chức năng kia [35]. Thiếu một trong ba chức năng nêu trên, tranh tụng trong TTHS sẽ không còn đầy đủ ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, các

chức năng này không xuất hiện đồng thời. So với chức năng xét xử, thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và đối trọng với nhau trong suốt quá trình tố tụng. Khi một nguời bị bắt, bị áp dụng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can thì trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa [19]. Tôi đồng tình với quan điểm này bởi lẽ lúc này đã xuất hiện hai chức năng là chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau và các chủ thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối tụng: Bên buộc tội và bên bào chữa. Hai bên này đều có ý kiến, luận điểm riêng, họ tranh luận để các bỏ một phần hay toàn bộ ý kiến của bên kia do vậy tranh tụng được hình thành. Còn đến giai đoạn xét xử tại Tòa án, xuất hiện một chức năng nữa là chức năng xét xử, chức năng này do chủ thể duy nhất là Toà án thực hiện (thông qua HĐXX, Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn hay Hội thẩm nhân dân). Ngoài ra, còn có các chủ thể khác được triệu tập tham gia vào quá trình tranh tụng tại phiên toà. Các chủ thể này không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan trong vụ án và cũng không tham gia vào việc thực hiện chức năng buộc tội, bào chữa hay xét xử. Nhiệm vụ của họ là giúp cho Toà án và các bên thực hiện chức năng của mình trong tranh tụng nhằm xác định sự thật về vụ án. Như vậy, chúng ta có thể thấy giữa hai mô hình tố tụng có sự khác nhau rất lớn về sự phân loại các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Trong hệ tố tụng thẩm vấn các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS được phân thành hai nhóm (không phụ thuộc vào chức năng tố tụng mà chủ thể tham gia thực hiện):

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2022