Nhóm 1: Các chủ thể tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện công tố hay Viện Kiểm sát, Công tố viên hay Kiểm sát viên; Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hay Bồi thẩm đoàn.
Nhóm 2: Các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm: Bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người giám định, người phiên dịch, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…
Trong hệ tố tụng tranh tụng, do có sự phân định rõ ràng giữa các chức năng cơ bản trong TTHS trên cơ sở nguyên tắc tranh tụng nên các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS được phân thành bốn nhóm (theo chức năng mà họ tham gia thực hiện):
Nhóm 1: Bên buộc tội: bao gồm các chủ thể tham gia thực hiện chức năng buộc tội: Cơ quan điều tra và Điều tra viên, Viện công tố hay Viện kiểm sát, Công tố viên hay Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp (người bảo vệ quyền lợi) của họ.
Nhóm 2: Bên bào chữa: bao gồm các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa: Người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo, người bị kết án, nguời bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện họp pháp (nguời bảo vệ quyền lợi) của họ. Các chủ thể này tạo thành bên đối lập với bên buộc tội;
Nhóm 3: Toà án (thông qua HĐXX) là chủ thể duy nhất thực hiện chức năng xét xử. Đây là chủ thể giữ vai trò trọng tài đứng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để phân xử.
Nhóm 4: Các chủ thể tham gia tố tụng khác gồm Thư ký phiên toà, người làm chứng, giám định viên, người phiên dịch, đại diện các cơ quan, đoàn thể hay tổ chức xã hội [31].
1.3.3. Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
Bản chất của điều khiển tranh tụng tại phiên tòa chính là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án. Bản chất này chi phối và định hướng mọi
hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia phiên tòa. Tại đây, thông qua hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng cùng với sự tham gia của những người tham gia tố tụng HĐXX có trách nhiệm điều khiển phiên tòa hướng tới xác định sự thật khách quan và ra phán quyết để giải quyết vụ án. Bản chất đó được thể hiện ở một số điểm sau đây:
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 1
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự ở tỉnh Bắc Ninh - 2
- Vai Trò Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Xét Xử Vụ Án Hình Sự:
- Tìm Hiểu Về Tranh Tụng Trong Hoạt Động Xét Xử Vụ Án Hình Sự Ở Một Số Quốc Gia Trên Thế Giới.
- Lịch Sử Phát Triển Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Ở Việt Nam:
- Giai Đoạn Từ Khi Có Bltths Năm 2003 Đến Nay:
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
- Tranh tụng tại phiên tòa là một cuộc điều tra công khai do các chủ thể (Thẩm phán, Kiểm sát viên, người bào chữa,…) cùng tiến hành dưới sự điều khiển của HĐXX (Chủ tọa phiên tòa). Tại đây các chứng cứ về vụ án được các chủ thể của các bên và HĐXX kiểm tra, đánh giá công khai trên cơ sở các quy định pháp luật.
- Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, phức tạp về nội dung, thể hiện sự xung đột về lợi ích, về tâm lý giữa các bên buộc tội và bên gỡ tội và bị hạn chế về mặt không gian và thời gian do pháp luật tố tụng quy định tức là hoạt động này chỉ có thể thực hiện tại phiên tòa và trong thời gian diễn ra phiên tòa và dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa.
- Mục đích của tranh tụng là xác định sự thật khách quan về vụ án thông qua hoạt động kiểm tra, đánh giá công khai chứng cứ và giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án trên cơ sở các quy định pháp luật làm căn cứ cho các nhận định, kết luận hoặc quyết định của HĐXX về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án theo quy định tại Điều 63 BLTTHS.
- Kết quả tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên về vụ án do HĐXX quyết định khi nghị án và được thể hiện bằng phán quyết (bản án hoặc quyết định) nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Đây là văn bản pháp lý kết thúc quá trình tranh tụng ở giai đoạn xét xử giữa các bên về vụ án.
- Phiên tòa sơ thẩm thể hiện bản chất của tranh tụng một cách đầy đủ, tập trung và rõ nét nhất. Bởi vì, Tòa án cấp sơ thẩm có nhiệm vụ xét xử đối với toàn bộ vụ án nên tại phiên tòa này mới có sự tham gia đầy đủ của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,…).
1.3.4. Nội dung hoạt động điều khiển tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự:
Tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HĐXX cần điều khiển phiên tòa với những nội dung chính sau:
- Thực hiện và điều khiển việc xét hỏi tại phiên tòa. Xét hỏi thực chất là cuộc điều tra chính thức tại phiên tòa để xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, các bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. HĐXX chủ động hướng các bên đi vào trọng tâm vấn đề, tập trung lắng nghe làm cơ sơ thực hiện thủ tục tiếp theo. Việc xét hỏi này chỉ kết thúc khi Tòa án thấy rằng thông qua xét hỏi sự thật khách quan, đối tượng chứng minh trong vụ án đã được xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan đến việc giải quyết đã được làm rõ.
- Tạo điều kiện để các bên đưa ra chứng cứ mới như: yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, đưa ra vật chứng hoặc tài liệu mới. Hồ sơ, chứng cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tòa. Tuy nhiên, các chứng cứ có trong hồ sơ là do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều trường hợp chưa thể đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khách quan. Đặc biệt đối với vụ án hình sự, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; cho nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra, VKS chỉ thu thập chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó bên bào chữa (người bào chữa, bị cáo) không được quyền chủ động thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại phiên tòa. Vì vậy, pháp luật tố tụng quy định các bên tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa ra các chứng cứ mới tại phiên tòa. Nhiệm vụ của Tòa án là đảm bảo để các bên thực hiện quyền tố tụng này; tránh trường hợp sợ phiền phức, sợ phiên tòa đi chệch quỹ đạo chuẩn bị nên không chú trọng thủ tục này tại phần mở đầu phiên tòa.
- Điều khiển để các bên phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ. Qua việc điều tra chính thức, công khai tại phiên tòa, mỗi bên tham gia tố tụng đều có cách nhìn nhận, đánh giá của mình về kết quả chứng minh. Để thực hiện chức năng tố tụng, nhiệm vụ tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các bên tham gia tố tụng phải công khai đưa ra ý kiến đánh giá của mình về sự thật khách quan của vụ án để giúp cho Tòa án cân nhắc khi ra phán quyết. Các đánh giá khác nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho Tòa án khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết;
Mục đích chính của tố tụng thẩm vấn là tìm ra sự thật và đạt được sự công bằng trong tố tụng (bao gồm các giai đoạn: điều tra, truy tố và xét xử). Trong khi đó mục đích của hệ tố tụng tranh tụng lại khác ở chỗ việc tìm ra sự thật chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong quá trình điều tra đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước Toà. Mỗi bên sẽ trình Toà "sự thật của phía mình” và Thẩm phán cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem "sự thật” nào có tính thuyết phục hơn... Hệ thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế, còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao khía cạnh pháp lý [6, tr.126].
- Điều khiển việc phát biểu ý kiến về pháp luật áp dụng. Thực tiễn cho thấy rằng, do nhiều lý do khác nhau như kĩ thuật lập pháp chưa tốt, quy định của pháp luật chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, trình độ nhận thức pháp luật chưa tốt mà pháp luật được nhận thức rất khác nhau trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nội dung của tranh tụng trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa bao gồm việc các bên tham gia tố tụng đề nghị áp dụng luật để bảo vệ quan điểm của mình trong giải quyết vụ án theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ví dụ: trong phiên tòa hình sự, đại diện VKS đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ việc buộc tội; người bào chữa đề nghị áp dụng pháp luật hình sự để gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) cho bị cáo…
- Hướng các bên đưa ra đề nghị biện pháp giải quyết vụ án liên quan đến quyền và lợi ích liên quan. Mỗi bên tham gia tố tụng đều nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nội dung không thể thiếu trong tranh tụng là các bên đề xuất ý kiến và lập luận trên cơ sở chứng cứ, quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích đó. Tùy theo tư cách tố tụng của mình mà phạm vi xét hỏi, tranh luận, đề xuất ý kiến của mỗi người tham gia tố tụng cũng có khác nhau: đại diện VKS bảo vệ cáo trạng, người bào chữa, bị cáo bảo vệ quan điểm không có tội hoặc giảm nhẹ TNHS, nguyên đơn dân sự đòi hỏi việc bồi thường, bị đơn dân sự bác bỏ hoặc giảm mức bồi thường…
Như vậy, nội dung điều khiển tranh tụng tại phiên tòa thể hiện thông qua việc Tòa án thay mặt Nhà nước xác định sự thật của vụ án trên cơ sở điều tra công khai tại phiên tòa, nghe ý kiến của các bên tham gia tố tụng để ra quyết định phán xét giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật để đưa ra phán xét cuối cùng.
1.3.5. Phạm vi và các giai đoạn của quá trình tranh tụng:
Trước hết, người điều khiển tranh tụng phải xác định phạm vi tranh tụng, tức là xác định quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm nào và kết thúc vào khi nào? Bởi vì, có xác định chính xác phạm vi tranh tụng thì mới có thể xác định đầy đủ và chính xác nội dung hoạt động của các chủ thể khi tranh tụng tại phiên tòa. Về vấn đề này, hiện nay trong khoa học TTHS ở nước ta còn có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng tranh tụng tại phiên tòa chỉ bao gồm phần tranh luận tại phiên tòa khi cho rằng tranh luận theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW có thể hiểu là nâng cao chất lượng tranh luận tại phiên tòa, lấy kết quả tranh luận tại phiên tòa để ra bản án, quyết định.
Quan điểm thứ hai cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc sau khi tuyên án, tức
là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Quan điểm thứ ba cho rằng tranh luận tại phiên tòa gắn liền với phiên tòa và không chỉ bao gồm phần tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá trình xét xử, cuộc tranh tụng chỉ thực sự kết thúc khi Tòa tuyên án. Điều đó có nghĩa là quá trình tranh tụng tại tòa được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa và bao gồm cả phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tôi cho rằng quan điểm thứ nhất là quá thu hẹp phạm vi tranh tụng. Nếu chỉ thu hẹp việc tranh tụng trong phần tranh luận thì không đạt được các mục đích tranh tụng đặt ra. Để thực sự tham gia vào quá trình chứng minh, các bên tham gia tranh tụng phải được phép đưa ra chứng cứ, thực hiện việc xét hỏi, xem xét vật chứng, để đảm bảo tính đầy đủ, toàn diện; chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá từ góc độ, cách nhìn nhận khác nhau của bên buộc tội và bên bị cáo. Hơn nữa, theo TTHS của nhiều nước, nhất là các nước theo truyền thống án lệ, phiên tòa không được phân chia rõ rệt thành phần xét hỏi, phần tranh luận thì quan điểm cho rằng tranh tụng chỉ xảy ra trong phần tranh luận là không chính xác. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi tranh tụng trong phạm vi tranh luận tại phiên tòa thì chưa xác định được quá trình tranh tụng về vụ án giữa các bên sẽ kết thúc ra sao. Để có căn cứ tranh luận về vụ án, các chủ thể tham gia tranh tụng phải kiểm tra, xác minh các chứng cứ, tài liệu về vụ án để từ đó lựa chọn được những chứng cứ hợp pháp, có giá trị chứng minh làm căn cứ cho các lập luận của mình khi đề xuất với HĐXX về hướng giải quyết các vấn đề về vụ án. Vì vậy tranh luận chỉ là một thủ tục, một phần độc lập của phiên tòa, trong đó thể hiện tập trung và rõ nét nhất nội dung tranh tụng. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng và chỉ là một bộ phận cấu thành của cả quá trình tranh tụng. BLTTHS 2003 (từ Điều 217 đến Điều 221) ghi nhận thủ tục tranh luận với tư cách là một phần của phiên tòa sơ thẩm, được tiến hành ngay sau phần xét hỏi. Theo quan điểm thứ
hai thì phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Tôi cho rằng cách hiểu mở rộng phạm vi tranh tụng này có thể chấp nhận được, tuy nhiên chưa đầy đủ vì trong thực tiễn xét xử, phần thủ tục phiên tòa được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng [34].
Quan điểm thứ ba cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên tòa bao gồm: phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án theo tôi là chính xác. Bởi vì, phần thủ tục phiên tòa được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng, chỉ sau khi HĐXX nghị án và tuyên án, thì kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa về vụ án mới được xác định và khi đó quá trình tranh tụng tại phiên tòa mới kết thúc. Do vậy, tranh tụng chỉ có thể tiến hành tại phiên toà nên quá trình này bị giới hạn bởi chính phiên toà. Nó được bắt đầu từ khi khai mạc phiên toà và kết thúc sau khi Toà án công bố phán quyết, trong đó tranh luận của các bên tại phiên toà chỉ là giai đoạn thể hiện đậm nét nhất, tập trung rõ nét nhất của quá trình tranh tụng giữa các bên về vụ án.
Từ phân tích trên, căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể có thể phân quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự thành 4 giai đoạn sau:
- Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng;
- Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án;
- Giai đoạn tranh luận giữa các bên;
- Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng:
Đây là giai đoạn mở đầu chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Nó được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa của chủ tọa phiên tòa và kết thúc trước khi kiểm sát viên công bố cáo trạng. Trong thời hạn nghiên cứu, Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, thấy vụ án đủ điều kiện thì xây dựng kế hoạch xét xử, trao đổi với Kiểm sát viên về đề