Bài Học Kinh Nghiệm Từ Cổ Phần Hóa Ở Trung Quốc

Về phía DN, DN sẽ thu hút được một lượng vốn nhất định để đầu tư vào cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng, nâng cao năng lực công nghệ, sản phẩm, cho phép tuyển chọn và tập hợp những nhà quản lý, kinh doanh giỏi vào bộ máy quản lý của Công ty. Bên cạnh đó, ban giám đốc doanh nghiệp mới thực sự là người quyết định cổ phần hóa chuyển đổi doanh nghiệp, khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần thì có được quyền tự chủ hoàn toàn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và không bị làm phiền bởi sự can thiệp có tính hành chính và chủ quan các cơ quan Quản lý của Nhà nước. Ngoài ra, khi thực hiện cổ phần hóa DN thì việc biến nguồn vốn của Doanh nghiệp thành nhiều phần và với nhiều chủ sở hữu có ưu thế hơn so với việc Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất hay là chiếm đại đa số vốn của Doanh nghiệp. Tạo ra nhiều chủ sở hữu, đồng thời với việc khi tiến hành cổ phần hóa thì có thể phát hành cổ phiếu ra bên ngoài, niêm yết công ty trên thị trường chứng khoán, việc mua đi bán lại các khoản vốn trên thị trường đồng thời có khả năng huy động thêm lượng vốn mới sẽ tạo ra tính thanh khoản cho Doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Do vậy, CPH các DNNN được coi là một giải pháp hiệu quả và mang tính tất yếu nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn và lâu dài cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tạo ra sức bật lớn. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường chứng khoán chưa thể nói là phát triển hiệu quả, số lượng công ty niêm yết còn khá hạn chế, chính vì vậy việc thúc đẩy cổ phần hóa để tạo thành những công ty đại chúng niêm yết cổ phần hóa là một điều rất đáng để khích lệ.

Về phía người lao động, lao động trong DNNN đông về số lượng nhưng nhiều người không qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề không phù hợp với điều kiện doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, nên năng suất lao động thấp, chất lượng

sản phẩm chưa cao. Đội ngũ người quản lí doanh nghiệp, nhất là hàng ngũ Giám đốc phần lớn chưa có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường không được đào tạo và tuyển chọn một cách chặt chẽ và có hệ thống. Người Giám đốc cũng như cán bộ công nhân viên điều chưa có trách nhiệm cao trong việc thục đẩy hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp mình. Khi tiến hành cổ phần hóa, cơ chế hoạt động của công ty thay đổi thì do đó cũng yêu cầu tư duy nhận thức của người lao động thay đổi. Trước tiên những người lao động này sẽ được quyền mua cổ phiếu, được quyền làm chủ doanh nghiệp do vậy mà họ sẽ có động lực hơn trong công việc, từ đó có thể giúp nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh cho Doanh nghiệp.

3. Triển vọng phát triển cổ phần hóa ở Việt Nam

Như đã trình bày, hình thái cổ phần là một hình thái tổ chức sản xuất chứa đựng tính chất xã hội hóa cao trong kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, việc cổ phần hóa với nội dung chủ yếu là chuyển một phần các DNNN sang hình thức công ty cổ phần về thực chất là sự chuyển đổi hình thức xã hội hóa quá trình sản xuất từ dạng Doanh nghiệp quốc doanh sang dạng công ty cổ phần. Sự thay đổi ở đây không phải là bản chất xã hội hóa của sản xuất mà là phương cách tổ chức sản xuất kinh doanh, phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.

Dưới góc độ của kinh tế thị trường, tính chất xã hội hóa của hình thái công ty cổ phần so với các hình thái công ty khác là điều rất rõ và cũng như khẳng định ở phần trước, cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa mà chỉ là đa dạng hóa chủ sở hữu, nhằm huy động vốn về phục vụ cho DN có thể hoạt động hiệu quả hơn.

Nhưng dưới góc độ của một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan điểm cho rằng việc thực hiện chuyển các DNNN sang công ty cổ phần làm cho tính chất xã hội chủ nghĩa bị suy yếu. Trong vấn đề này, cần nhận thức rõ,

không phải tỷ lệ kinh tế thuộc DNNN càng lớn về mặt lượng thì tính chất Xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế càng cao mà điều quan trọng là phải nâng cao được năng lực và hiệu quả của những DNNN này. Hơn thế nữa, khi thực hiện CPH, tùy thuộc vào tầm quan trọng của DNNN, mà Nhà nước vẫn có thể duy trì tỷ lệ cổ phần chi phối trong một số doanh nghiệp nhất định.

Tóm lại, cần phân biệt sự khác nhau giữ DNNN với sức mạnh của kinh tế Nhà nước. Trong đó, cái cần tăng cường để đảm bảo giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế là sức mạnh kinh tế của Nhà nước được nhìn nhận một cách tổng thể chứ không phải là bộ phận công cụ các DNNN được nhìn nhận một cách cục bộ. Do vậy, trong việc giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, các DNNN tự bản thân nó chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích.

Vì vậy, với những động lực để tiến hành cổ phần hóa như đã trình bày ở trên ở Việt Nam, Việt Nam cũng cần phải có những điều kiện cần thiết để tiến trình cổ phần hóa có thể được thuận lợi. Thị trường chứng khoán là một kênh thu hút vốn quan trọng từ xã hội để đầu tư phát triển. Các DN Việt Nam nói chung với tư cách là bộ phận giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, không thể không trở thành lực lượng đi tiên phong trong việc góp phần tạo ra và làm lớn mạnh thêm thị trường chứng khoán bằng cách trực tiếp tham gia vào hoạt động của thị trường này. Tuy nhiên việc tham gia thị trường chứng khoán, cần một khoảng thời gian nhất định để chuẩn bị chu đáo, vì vậy, cần có một quy định pháp luật đủ mạnh để thúc đẩy các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

4. Kinh nghiệm cổ phần hóa của Trung Quốc

4.1 Một số kinh nghiệm cổ phần hóa ở Trung Quốc

Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp thực hiện - 4

Trung Quốc là một nước sớm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sự so sánh với những kinh nghiệm cổ phần hóa của TQ đặc biệt quan trọng vì

sự tương đồng về hệ thống chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc tuy không hoàn toàn giống nhau nhưng vẫn có một số nét tương đồng.

Trước hết để tiến hành CPH, Trung Quốc xác định rõ quan điểm CPH, đó là tiến hành cổ phần hóa theo quan điểm tư tưởng của Chủ nghĩa Mác, coi CPH là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nhằm tạo ra cơ chế kinh doanh có hiệu quả chứ không tìm kiếm các hình thức kinh tế khác nhau. Điều đó nhằm mở rông, phát triển nền kinh tế thị trường và điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước không còn giữ vai trò to lớn như trước nữa.

Trung Quốc đã thực hiện CPH DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN. Lần lượt rất nhiều Luật đã được ban hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất - kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.

Các hình thức CPH bao gồm đa dạng:

Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp thông qua bán cổ phiếu và cải biến DNNN thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế.

Bán phần lớn giá trị tài sản của DNNN thông qua bán cổ phiếu cho mọi đối tượng, trong đó Nhà nước là một cổ đông song không nắm cổ phần khống chế.

Bán toàn bộ DNNN cho tư nhân để hình thành các công ty tư nhân hoặc các công ty cổ phần.

Giữ nguyên vốn Nhà nước và gọi thêm vốn của các cổ đông khác để chuyển thành công ty cổ phần.

Trong giai đoạn 1993 – 1997, khi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 9, Đảng cộng sản Trung Quốc xác định rõ xây dựng chế độ doanh nghiệp là nhiệm vụ trung tâm, theo đó các xí nghiệp mới mang bốn đặc trưng:

Quyền sở hữu tài sản rõ ràng

Quyền lợi và trách nhiệm của mọi chủ thể rõ ràng.

Chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau.

Quản lý khoa học.

Nhiều biện pháp mới liên quan đến cổ phần hóa được áp dụng như thành lập công ty quản lý doanh nghiệp trung ương và biến các công ty cổ phần hóa thành công ty con của công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi DNNN và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hóa.

Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến một số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh nghiệp, cổ phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất – kinh doanh, thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị

trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…

Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”.

Số doanh nghiệp có qui mô lớn được cổ phần hoá tại Trung Quốc cũng diễn ra sớm hơn, bắt đầu từ năm 1998, và điều này chỉ mới xảy ra rất gần đây tại Việt Nam. Chương trình cổ phần hoá của Trung Quốc còn có một ưu điểm khác: “các cổ đông bên ngoài có vai trò tích cực đáng kể trong việc điều hành doanh nghiệp. Nhóm cổ đông này thường có khuynh hướng tiết chế vai trò chi phối truyền thống của Đảng và công đoàn”. Ngoài ra, định chế tài chính quan trọng hỗ trợ cho sự thành công của chương trình cổ phần hoá là thị trường chứng khoán tại Trung Quốc cũng đã phát triển sớm hơn và hiện nay chiếm không nhỏ trong tổng sản lượng quốc gia.

4.2 Bài học kinh nghiệm từ cổ phần hóa ở Trung Quốc

Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần hóa, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội: chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Kinh nghiệm về quản lý tài sản Nhà nước, nội dung của cổ phần hóa là điều chỉnh mối quan hệ về quyền tài sản đối với tài sản Nhà nước, Trung Quốc đã tạo ra được một hệ thống các nhà chức trách và giám sát kinh doanh

tài sản Nhà nước. Thành lập cơ quan đánh giá tài sản Nhà nước mang tính chuyên nghiệp và có quyền lực là điều cần thiết.

Cần phải đa dạng hóa hình thức cổ phần hóa để cho khối DNNN có thể lựa chọn hình thức phù hợp nhất với mình điều đó cũng đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa.

Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần hóa, chính phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn đầu tư. Thêm vào đó là biện pháp bảo đảm quyền lợi của người bỏ vốn, đảm bảo dòng vốn bỏ vào sinh lời. Cải cách CPH DNNN cần phối hợp với cải cách thể chế tài chính tiền tệ, sự phát triển của thị trường tài chính và giao dịch chứng khoán để tạo động lực cho CPH.

CHƯƠNG II‌‌

THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM


I. CÁC GIAI ĐOẠN CỔ PHẦN HÓA

1. Giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (1992 – 6/5/1996)

Chủ trương CPH DNNN đã được chính phủ nêu ra trong quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 ở điều 22: “Bộ tài chính nghiên cứu và cho tổ chức làm thử việc mua bán Cổ phần ở một số xí nghiệp và báo cáo kết quả lên Chính phủ vào cuối năm 1988”. Tuy nhiên, điều kiện cụ thể lúc bấy giờ vẫn còn là chế độ bao cấp đối với các Doanh nghiệp Nhà nước nên việc thực hiện cổ phần hóa các Doanh nghiệp này không thành công.

Đến năm 1990, Chính phủ ra quyết định 143/HĐBT trong đó có nội dung: “Nghiên cứu và làm thử việc chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần”. Lúc đó lại chưa có luật công ty và sự thiếu thống nhất về quan điểm nên quyết định này cũng không thể thực hiện được.

Các nghị quyết hội nghị Trung Ương 2 khóa VII, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, Thông báo số 63 TB/TW của Bộ chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết kỳ họp thứ 10 quốc hội khóa VII ngày 26/12/1991, Nghị quyết kì họp thứ 6 Quốc hội khóa IX tháng 12/1993 đều chủ trương:

Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hóa một bộ phận DN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn nhằm ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả.

Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp. Cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí