Nhận Xét Quá Trình Đảng Lãnh Đạo Phát Triển Du Lịch (2006 ­ 2015)


và 308.300 người được đào tạo dưới sơ cấp và trình độ phổ thông; có 70­80% công chức hành chính được trang bị kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ [16, tr.47].

Để thực hiện mục tiêu trên, Quy hoạch xác định phải tăng cường

quản lý nhà nước về phát triển nhân lực du lịch, tập trung vào xây dựng tiêu chuẩn và thực hiện chuẩn hóa một bước nhân lực du lịch, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo để điều kiện cho hội nhập quốc tế về lao

động trong du lịch. Đồng thời, phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng về du lịch đảm bảo liên kết chặt chẽ và cân đối giữa các bậc đào

tạo, ngành nghề

đào tạo, tăng cường huy động và sử

dụng hiệu quả

các

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển nhân lực du lịch. Trong đó khâu đột phá là xây dựng và thực hiện chuẩn hóa thực hiện chuẩn hóa nhân lực du

lịch. Quy hoạch cũng chỉ

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển du lịch từ năm 2006 đến năm 2015 - 17

rõ: Từ

2010 ­ 2012, tiến hành xây dựng và phê

duyệt, lập kế hoạch triển khai, xây dựng chính sách, triển khai thí điểm rút kinh nghiệm để triển khai trên diện rộng. Từ năm 2012­2015, triển khai các cơ quan quản lý nhà nước, các địa phương, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch, tiến hành sơ kết 5 năm.

Tiếp đó, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là đào tạo phát triển nhân lực du lịch, theo đó, sẽ tập trung vào phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về du lịch; thực hiện liên kết giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp du lịch để đào tạo theo nhu cầu của các doanh nghiệp; xây dựng tiêu chuẩn và thực hiện chuẩn hóa nhân lực du lịch. Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn

2013 ­ 2020 tiếp tục chỉ

ra các giải pháp nhằm hỗ

trợ

nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực du lịch: Phối hợp với các bộ, ngành, các cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đẩy nhanh


tiến độ xây dựng, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch theo tiêu

chuẩn quốc tế, đề án chuẩn hóa chương trình khung đào tạo nghề du

lịch, khung bồi dưỡng nghiệp vụ

du lịch. Định kỳ tổ

chức bồi dưỡng

nghề du lịch cho đội ngũ lao động du lịch. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

kỹ năng tổ chức, khai thác, phục vụ khách du lịch cho doanh nghiệp du

lịch, cộng đồng địa phương. Định kỳ tổ chức các hội thi tay nghề, thi

chuyên gia trong lĩnh vực du lịch. Tổ dẫn viên, thuyết minh viên du lịch.

chức thi sát hạch cấp thẻ

hướng

Trong giai đoạn 2011 ­ 2015, chỉ đạo đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch có sự phát triển mạnh mẽ, có sự đột phá so với giai đoạn 2006 ­ 2010, thể hiện ở việc chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 ­ 2020, đây là sự đột phá lớn, lần đầu tiên, Việt Nam đã xây dựng và tổ chức thực hiện một chiến lược nhân lực du lịch dài hạn, việc xác định rõ các quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở để chỉ

đạo việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch trước mắt và cả gian tiếp sau.

thời

Chỉ đạo phat́ triên

nguôǹ

nhân lưc

du lic

h trong giai đoạn 2011 ­ 2015 đã

góp phần quan trọng thúc đẩy du lịch phát triển và đạt hiệu quả cao, cụ thể:

Chỉ

đạo phát triến mạng lưới cơ sở

đào tạo, bồi dưỡng du lịch

được chú trọng, số lượng các trường được đào tạo du lịch tăng nhanh.

Từ năm 2011 đến năm 2015, đã ban hành khoảng 20 văn bản cho phép

mở các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch tại các trường

đào tạo du lịch trên cả nước; 62 trường đại học; hơn 80 trường cao

đẳng, 117 trường trung cấp đã tuyển được 11.209 học sinh, sinh viên tham gia đào tạo 55 ngành với 123 chuyên ngành. Nhân lực phục vụ

công tác đào tạo, phát triển văn hóa, thể thao, du lịch có khoảng 9.196


người, trong đó có 3.112 giảng viên, 2500 đào tạo viên du lịch, tỷ lệ giảng viên có trình độ đại học trở lên chiếm 26,49% [27, tr.23].

Chỉ đạo xây dựng tiêu chuẩn và thực hiện chuẩn hóa nhân lực du lịch được quan tâm. Chính phủ, các bộ, ngành kịp thời ban hành các khung chương trình đào tạo theo hướng chuẩn hóa và tổ chức thực hiện tại các cơ

sở đào tạo du lịch trên phạm vi cả

nước. Năm 2011, Bộ

Lao động và

Thương binh Xã hội ban hành Thông tư số 38/2011/TT­BLĐTBXH, Quy định chương trình khung trình độ trung cấp nghề, chương trình khung trình độ cao đẳng nghề cho nghề khách sạn, du lịch. Tiếp đó, ngày 18/12/2012, Quyết định số 624/QĐ­TCDL, đã ban hành khung chương trình tập huấn nghiệp

vụ du lịch cho thuyền viên, người lái phương tiện và nhân viên phục vụ

khách du lịch trên phương tiện thủy nội địa. Năm 2015, Bộ Lao động và

Thương binh Xã hội đã ban hành Thông tư số 22/2015/TT­BLĐTBXH, ngày 18/6/2015, Quy định chương trình khung trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề cho phiên dịch tiếng anh du lịch và Marketing du lịch.

Chỉ đạo bồi dưỡng, tuyển dụng, kiểm tra trình độ đối với nhân lực du lịch sâu sát, nghiêm túc. Hàng năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch đã phối hợp với các trường tổ chức kiểm tra nghiệp vụ

hướng dẫn du lịch, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Việc thi tuyển viên

chức, công chức ngành du lịch được chỉ đạo chặt chẽ, minh bạch. Trong các năm 2011 ­ 2015, Tổng cục Du lịch đều có thông báo chi tiết về kỳ thi

tuyển công chức, viên chức và thông báo kết quả thi từng năm. Các lớp

tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch tiến hành thường xuyên. Năm

2014, Tổng cục Du lịch tổ

chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ

du lịch tại

Nghệ An cho những cán bộ thuyết minh khách du lịch tại các khu, điểm du lịch thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và Trung Bộ. Tổng cục Du lịch phối


hợp với các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tổ chức các lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ tại các tỉnh Điện Biên, Nam Định, Bình Định,... cho 700 học

viên. Năm 2015, Tổng cục Du lịch tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức Hội nhập kinh tế quốc tế năm cho đội ngũ công chức, viên chức của ngành du lịch,...

Chỉ

đạo liên kết hợp tác quốc tế để

đào tạo, phát triển nhân lực

du lịch có hiệu quả. Hoạt động liên kết đào tạo du lịch với các cơ sở

đào tạo nước ngoài được đẩy mạnh trong khuôn khổ hợp tác đa phương

hoặc song phương, chủ

yếu là các cơ sở

đào tạo du lịch

ở ASEAN,

Trung Quốc, Úc, Canada và một số nước châu Âu. Việt Nam có 20 cơ

sở đào tạo du lịch tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch châu Á Thái Bình Dương. Trong đó có 07 trường cao đẳng, 01 viện nghiên cứu, 02 trường trung học, 10 trường đại học. Năm 2012, Tây Ban Nha tài trợ

chương trình bồi dưỡng kiến thức về phát triển du lịch bền vững cho

cán bộ quản lý nhà nước và đại diện một số doanh nghiệp của 14 tỉnh,

thành phố

miền Trung. Trong các năm 2013 ­ 2014, Chính phủ

đã phối

hợp với Chương trình Phát triển Năng lực Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội, do Liên minh châu Âu tài trợ nhằm đào tạo nhân lực du lịch Việt Nam, trong đó, năm 2013, đã phân tích nhu cầu nguồn nhân lực và đào tạo của ngành du lịch Việt Nam theo chuẩn quốc tế, năm 2014, xây dựng và phổ biến bộ tài liệu Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch, đồng thời tiến hành sửa đổi bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam.

Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực du lịch giai đoạn 2011 ­ 2015 có sự phát triển mạnh so với giai đoạn 2006 ­ 2010. Năm 2015, quy mô

số lượng nhân lực du lịch khoảng 2,25 triệu người, chiếm khoảng 4%


lực lượng lao động cả nước, trong đó lao động trực tiếp khoảng

750.000 người [155, tr.1], tổng quy mô nhân lực và lao động tực tiếp

gấp 1,6 lần năm 2010. Về chất lượng nguồn nhân lực, tính đến năm

2015, trong số 750.000 lao động trực tiếp có 50% lao động du lịch đã

qua đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng (chiếm 20%). Số lao

động đã qua đào tạo trình độ

đại học và sau đại học về

du lịch đạt

khoảng 7,5% số

nhân lực có chuyên môn du lịch (3,2%). Số

lao động

gián tiếp có khoảng trên 1,3 triệu người, trong đó trình độ sơ cấp

khoảng gần 240 nghìn người (gần 18%), tăng 70 nghìn so với năm 2010

(170.000 người), trình độ trung cấp khoảng trên 200 nghìn người (trên

15%), tăng 55.000 người so với năm 2010 (145.000 người), đại học và cao đẳng khoảng trên 160 nghìn người (trên 12%), tăng 43.450 người so với năm 2010 (116.550 người), số nhân lực trên đại học có 2.656 người tăng 656 người so với năm 2010 (2.000 người) bằng 0,2% tổng nhân lực gián tiếp [155, tr.1­2].

Cùng với quá trình phát triển chung của nền giáo dục nước nhà, các điều kiện về kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, công tác đào tạo phát nguồn nhân lực du lịch đã có sự phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số bất cập, vấn đề thống nhất khung chương trình đào tạo giữa các cơ sở đào tạo du lịch chưa được giải quyết. Xây dựng tiêu chuẩn nghề du lịch còn ít. Sự liên kết giữa cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch chưa nhiều, đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội. Quy mô và chất lượng lao động du lịch tuy có sự tăng trưởng lớn, song chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển của du lịch. so với trong khu vực, nguồn nhân lực du lịch Việt Nam yếu kém về kỹ năng hội nhập toàn cầu, về ngoại ngữ.


Kết luận chương 3

Trong giai đoạn 2011 ­ 2015, hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế lớn trên thế giới, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa ngày một sâu, rộng và tác động đến đời sống kinh tế, chính trị thế giới. Bên

cạnh đó, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó

lường, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, khủng hoảng kinh tế, chính trị, tranh chấp biên giới, lãnh thổ diễn ra ở nhiều nơi,... tình hình đó đan xen cả những thuận lợi và thách thức đối với phát triển du lịch.

Trong giai đoạn 2006 ­ 2010, du lịch Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ, tạo đà thuận lợi cho giai đoạn phát triển tiếp sau. Trong giai đoạn mới 2011 ­ 2015, Việt Nam hội nhập ngày một sâu rộng vào nền kinh tế quốc

tế, kinh tế

có sự

phát triển khá vững chắc, chính trị

xã hội

ổn định, đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, vị thế Việt nam

trên trường quốc tế

ngày một được nâng cao, thế

và lực của đất nước

được nâng lên nhiều. Bám sát tình hình thế giới, trong nước và thực trạng

du lịch Việt Nam, Đảng đã kịp thời hoạch định chủ trương phát triển du

lịch, chủ trương đó được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng

(2011) và các Hội nghị Trung ương trong giai đoạn 2011 ­ 2015, du lịch tiếp tục được ưu tiên phát triển và hiện đại hóa để thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Đảng đã chỉ đạo chặt chẽ việc phát triển du lịch. Việc triển khai tổ

chức thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển du lịch luôn có sự

phối hợp nhịp nhàng giữa Chính phủ, Bộ

Văn hóa, Thể

thao và Du lịch,

Tổng cục Du lịch, các bộ, ban, ngành và các cơ quan hữu quan. Du lịch Việt Nam tiếp tục có sự phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả nổi bật,

nhiều nội dung có bước đột phá mới và có những chỉ tiêu gấp nhiều lần

giai đoạn 2006 ­ 2010, góp phần giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội,


đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước, du lịch đang từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Chương 4

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

4.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo phát triển du lịch (2006 ­ 2015)

4.1.1. Ưu điểm

Một là, nhận thức của Đảng về vai trò của du lịch ngày càng sâu sắc và toàn diện.

Đảng đã chú trọng đầu tư

công sức và trí tuệ

nghiên cứu lý luận,

tổng kết thực tiễn phát triển du lịch trong nước và quốc tế, để hoàn chỉnh

dần hệ

thống các quan điểm, chủ

trương, chính sách phát triển du lịch.

Nhận thức về vai trò của du lịch đã có sự nâng cao.

chuyển biến rõ rệt, ngày một

Đại hội VI (1986) của Đảng xem du lịch là hoạt động cần mở rộng và coi trọng để thu ngoại tệ. Đại hội xác định: Đi đôi với đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, chúng ta hết sức coi trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt động thu ngoại tệ như du lịch, kiều hối. Đại hội VII (1991) của Đảng đã coi du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển nhằm khai thác lợi thế của đất nước, đồng thời, mở rộng hợp tác với nước ngoài để phát triển mạnh du lịch. Quan điểm trên đã mở ra hướng phát triển mới đối với du lịch, không chỉ bó hẹp trong nước mà

phải mở

rộng ra quốc tế. Cụ thể hóa chủ

trương đó, Chỉ

thị

46 CT/TW,

ngày 14/10/1994, chỉ rõ, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, đồng thời phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế ­ xã hội của Đảng. Quan điểm này cho thấy, phát triển du lịch không còn là trách nhiệm của một cơ


quan chức năng nào mà là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các vùng, của toàn xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng xác định du lịch là “một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh

tế ­ xã hội của đất nước” với mục tiêu: Phát triển mạnh du lịch, từng

bước đưa nước ta trở

thành trung tâm du lịch có tầm cỡ

khu vực [55,

tr.89]. Chiến lược phát triển kinh tế ­ xã hội 2001­2010 thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng khẳng định mục tiêu phát triển du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử [56, tr.178]. Chủ trương đó đã khẳng định vị trí, vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế, xã hội phát triển; có đóng góp lớn vào GDP; góp phần giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội;

đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Đồng thời, xác định

phương hướng phát triển của du lịch là dựa trên khai thác lợi thế tài nguyên du lịch về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử dân tộc. Đây là lần đầu tiên, Đảng khẳng định chủ trương phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong văn kiện, thể hiện bước phát triển vượt bậc về nhận thức và tư duy của Đảng đối với du lịch, nhận thức đó có tính khoa học và thực tiễn rất cao, nó góp phần thống nhất nhận thức về du lịch trong xã hội, khi đó du lịch sẽ được tập trung đầu tư phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, nhận thức này đã thay đổi cơ bản cách làm, cách nghĩ của Đảng trong lãnh đạo phát triển du lịch, là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng trong hoạch định chủ trương và chỉ đạo phát triển du lịch.

Đại hội X (2006) và XI (2011) của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phấn đấu Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu

Xem tất cả 229 trang.

Ngày đăng: 27/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí