Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp thực hiện - 2

Theo các qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác…) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty. Ngoài ra, khi xây dựng giá trị các cổ phiếu của công ty thì các công ty thường xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư vốn vào CTCP.

1.2.5 Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời gian tồn tại

Với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết, sự rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một trong các thành viên hợp danh của công ty. Nhưng đối với CTCP thì hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty; bởi vì CTCP có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với các cổ đông thì công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không hề bị ảnh hưởng gì. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh của công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, các luật công ty hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của công ty cổ phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thoả thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt

động lâu dài đã tạo cho các CTCP có được sự thu hút mạnh mẽ và được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.

1.2.6 Cơ chế quản lý tập trung cao

Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong CTCP có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra Ban giám đốc và Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty. Như vậy, trong CTCP việc quản lý được tập trung hoá cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư cách là những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được công ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý đã tạo cho CTCP có được sự quản lý tập trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn. Khác với doanh nghiệp tư nhân là việc quản lý mang tính chất nội bộ gia đình, CTCP có một cơ chế quản lý hợp lý, minh bạch rõ ràng.

Tóm lại: Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa thì việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội theo hướng khai thác các tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn lực vật chất

cần thiết khác cho nhu cầu đầu tư và phát triển của đất nước là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tiến trình đẩy mạnh việc khai thác các nguồn lực quốc gia, chúng ta không thể không tính đến yếu tố nội lực. Nhìn lại các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà pháp luật Việt Nam cho phép thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có những điểm mạnh nhất định đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để khai thác và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện của nền kinh tế.

1.3 Tổ chức quản lý của công ty cổ phần

Do tính chất có nhiều chủ sở hữu của CTCP nên các cổ đông không thể trực tiếp vai trò chủ sở hữu của mình mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ quản lý lãnh đạo công ty đó là: Đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc điều hành và kiểm soát viên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Cơ cấu của CTCP hoạt động chặt chẽ với sơ đồ sau:

Đại hội đồng cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần.

Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp thực hiện - 2

Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan tới mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông.

Ban kiểm soát: công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có ban kiểm soát, ban kiểm soát bầu một thành viên làm trưởng ban kiểm soát, trưởng ban kiểm soát phải là cổ đông. Ban kiểm soát về mô hình có vị thế tương đối khá cao, tương đương với hội đồng quản trị và trên cả ban giám đốc.

Ban giám đốc: quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp, tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị và lên kế hoạch kinh doanh.


Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức công ty cổ phần.

Theo sơ đồ trên thì trong cơ cấu tổ chức và điều lệ hoạt động của Công ty cổ phần có: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban giám đốc quản lý công ty. Mỗi bộ phận đều có những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau.

2. Cổ phần hoá

2.1 Khái niệm

Cổ phần hoá nói chung diễn có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại các Doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái CTCP.

Cổ phần hoá DNNN là chuyển DNNN thành CTCP, trong đó chuyển toàn bộ hay một phần vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các lĩnh vực lâu nay Nhà nước độc quyền cho các cổ đông. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước không chỉ là quá trình chuyển sở hữu Nhà nước sang các cổ đông thông qua việc bán một phần hay toàn bộ cổ phần doanh nghiệp mà còn có cả việc DNNN thu hút thêm vốn thông qua phát hành thêm cổ phiếu để trở thành CTCP.

Xét về bản chất cổ phần hoá DNNN là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp hoặc phát hành thêm cổ phiếu bán cho các đối tượng là tổ chức, cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán. Cổ phần hoá DNNN chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp thành nhiều chủ sở hữu, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang đa chủ sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho người khác để tạo ra một doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường, những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ cổ phần mà họ sở hữu.

CPH DNNN chính là quá trình chuyển đổi toàn bộ những DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. CPH DNNN gắn liền với việc DNNN chuyển sang hoạt động dưới tên công ty và luật CTCP, không còn là DNNN nữa.

Ở Việt Nam, người ta thường nhầm lẫn giữa cổ phần hoá và tư nhân hoá. Một số nghiên cứu cho rằng việc thực hiện tư nhân hoá các Doanh nghiệp cũng gần tương đồng với quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam. Nhưng tư nhân hoá DNNN là một khái niệm rộng và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Có thể hiểu tư nhân hóa là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ Nhà nước sang tư nhân, đồng thời, chuyển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ Nhà nước độc quyền sang cho tư nhân đảm nhiệm.

Nhưng trên thực tế, CPH và tư nhân hoá DNNN về bản chất lại khác nhau ở một số điểm sau:

Thứ nhất, CPH DNNN nhằm thực hiện đa dạng hoá sở hữu nhưng Nhà nước vẫn giữ tỷ lệ cổ phần chi phối 51% (đối với những Doanh nghiệp được xác định là quan trọng đối với nền kinh tế), Nhà nước vẫn có thể chi phối doanh nghiệp sau CPH. Trong khi tư nhân hoá Nhà nước thường bán lại

toàn bộ doanh nghiệp cho tư nhân (có thể một vài cá nhân) hoặc nếu Nhà nước có giữ lại cổ phần nhưng thường với tỷ lệ không lớn và không phải là cổ phần chi phối.

Thứ hai, CPH DNNN nhằm tạo cho DN sau khi cổ phần hoá với cơ chế hoạt động nhiều chủ sở hữu hơn, không khẳng định tầm quan trọng của thành phần kinh tế nào hơn nhưng với tư nhân hoá theo một số quan điểm lại là biện pháp nhằm tăng vai trò của thành phần kinh tế tư nhân, ví dụ như xoá bỏ điều tiết Nhà nước, cho phép tư nhân tiếp cận thị trường trước cả doanh nghiệp Nhà nước.

2.2 Nội dung của cổ phần hoá.

Quá trình CPH DNNN bao gồm nhiều nội dung nhưng chủ yếu phải xác định được đối tượng CPH DNNN, hình thức CPH DNNN và những vấn đề khác.

2.2.1 Đối tượng của cổ phần hoá

Đối tượng cổ phần hoá là các DNNN thoả mãn một số điều kiện gắn với quan điểm của từng quốc gia, phụ thuộc vào nhận thức kinh tế và hoàn cảnh lịch sử của quốc gia đó. Nói chung đối tượng CPH là những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Ở Việt Nam cổ phần hoá được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới, sắp xếp DNNN. Các DNNN (kể cả các tổng công ty) đều là đối tượng cổ phần hoá (không phụ thuộc vào thực trạng sản xuất kinh doanh). Tuy nhiên, những DN này không nằm trong diện giải thể, phá sản và không thuộc lĩnh vực mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ như: sản xuất cung ứng vật liệu nổ, hoá chất độc, phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng thông tin, quốc phòng, an ninh…

2.2.2 Hình thức cổ phần hoá

Cổ phần hoá DNNN có thể tiến hành theo hình thức như:

Giữ nguyên giá trị phần vốn Nhà nước hiện có tại DN, phát hành thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Hình thức này

nhằm thu hút vốn ngoài xã hội đầu tư, phát triển, tăng vốn hoạt động cho doanh nghiệp.

Bán toàn bộ phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. hình thức này được áp dụng cho những DNNN thuộc đối tượng mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần.

Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần, tức là Nhà nước không còn nắm giữ cổ phần tại công ty.

Mỗi hình thức CPH đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Nhưng sự đa dạng trong hình thức sẽ tạo thêm cho DN nhiều lựa chọn phù hợp với ngành nghề kinh doanh, loại hình DNNN đang tồn tại, mục đích của chủ sở hữu để tiến hành cổ phần hoá.

2.2.3 Các vấn đề về tài chính khi tiến hành cổ phần hóa

Trước khi có thể CPH DNNN, phải xem xét các vấn đề về tài chính trong quá trình CPH. Trước hết, phải xác định được giá trị doanh nghiệp. Trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp thì phải xác định được những khoản nợ của doanh nghiệp để từ đó và xử lý các khoản nợ để tiến hành cổ phần hoá. Nếu không xử lý xong nợ, đặc biệt là những khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi thì cũng khó có thể CPH được.

Với giá trị doanh nghiệp đã được xác định, thì cần phải bán cổ phần doanh nghiệp, đó là khâu cuối cùng kết thúc quá trình CPH DNNN. Khi bán cổ phần phải giải quyết nhiều vấn đề như: Xác định giá bán ban đầu, phương thức bán, xử lý tiền thu về bán cổ phần,…thông qua bán cổ phần thì Nhà nước mới thu được tiền về chuyển đổi sở hữu DNNN. Chính vì vậy, bán cổ phần có thể coi là một vấn đề về tài chính khi tiến hành CPH DNNN.

2.3 Những điều kiện cần có để thực hiện cổ phần hoá

Chuyển hoá DNNN sang hình thức công ty cổ phần là một công việc phức tạp, không thể thực hiện trong thời gian ngắn và để quá trình hoạt động

có hiệu quả thì phải thực sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết tạo môi trường cho công ty cổ phần.

Một là sớm tạo ra cơ sở pháp lý và cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở hữu DNNN. Đó là việc dự thảo và thông qua các văn bản luật pháp và pháp quy, việc chủ động thực hiện và phối hợp hoạt động hệ thống các cơ quan chức năng có liên quan. Trong tất cả những công việc đó rất cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, nhạy bén, năng động với đủ trình độ nghiên cứu, xử lý những vấn đề phát sinh ở doanh nghiệp cần chuyển hoá sở hữu cũng như trong quá trình chuyển đổi sở hữu tiếp sau.

Trong những văn bản nêu trên cần phải xác định những điều kiện pháp lý phổ biến như: cách tiếp cận các Doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá, khả năng tham dự vào việc chuyển đổi của công ty, cách thức xem xét các ý kiến khác nhau của tập thể lao động, hình thức và phương thức cổ phần hoá.

Hai là, phải lập xong chương trình tiến hành bao gồm những công việc chủ yếu: nhiệm vụ cụ thể của quá trình cổ phần hoá và phân loại tài sản và DNNN theo quy mô và xác định tỷ trọng chuyển đổi sở hữu trong chuyển đổi sở hữu trong từng loại nhỏ, trung bình, lớn và những doanh nghiệp không chuyển hoá sở hữu trong từng ngành, từng lĩnh vực, cải cách cơ chế quản lý ngân hàng, trình tự tiến hành kiểm kê và định rõ nguồn hình thành giá trị của các loại tài sản, vốn, quỹ xí nghiệp theo mức giá thị trường…

Ba là, phải có sự quyết tâm của Chính Phủ. Toàn bộ những bước đi của quá trình chuyển hoá sở hữu các DNNN từ đặt vấn đề, đến xem xét môi trường kinh doanh, những thay đổi về luật pháp, cách thức chuyển các DNNN sang cơ chế thị trường. Không thể tiến hành nếu thiếu sự quyết tâm của chính phủ và thái độ kiên quyết của các cơ quan có trách nhiệm.

Thứ tư là phải có sự thông hiểu và ủng hộ của quần chúng. Nếu muốn quá trình này được thực thi một cách suôn sẻ thì trước hết phải công khai hoá nó qua đó sẽ tạo ra sự hưởng ứng của dư luận xã hội, và xác lập một môi trường cho việc mở rộng đầu tư trong nước.

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí