Đối Với Thi Hành Quyết Định Của Trọng Tài Thương Mại Việt Nam

đến pháp luật nước ngoài. Vì vậy, đòi hỏi các thẩm phán phải có sự hiểu biết nhất định về pháp luật trọng tài ở các nước trên thế giới, tránh tình trạng vì không hiểu biết các quy định của pháp luật nước ngoài mà không công nhận hoặc có suy nghĩ “đánh nhầm còn hơn bỏ sót”.

3.3.2. Đối với thi hành quyết định của trọng tài thương mại việt nam

Về pháp luật: Cơ sở đầu tiên cho việc hoàn thiện cơ chế thi hành quyết định trọng tài là việc cần thiết phải ban hành Luật Trọng tài thương mại thay thế cho pháp lệnh trọng tài thương mại hiện nay.

Sự cần thiết phải ban hành Luật Trọng tài:

Ở các nước theo hệ thống luật án lệ hầu hết đã có Luật Trọng tài: Ví dụ: Mỹ có Luật Trọng tài liên bang năm 1925, Anh có Luật Trọng tài năm 1959, 1975, 1979; Australia có Luật liên bang về Trọng tài thương mại quốc tế và các Luật Trọng tài của liên bang; Brazil, Trung Quốc và rất nhiều các quốc gia khác ở các hệ thống pháp luật khác nhau từ lâu đều đã có Luật Trọng tài. Ở các nước theo truyền thống luật dân sự, một số nước đưa các quy định của pháp luật Trọng tài vào trong Bộ luật Tố tụng dân sự như Áo, Đức, Pháp, Ý..Tuy nhiên có một số nước lại ban hành Luật Trọng tài riêng như Phần Lan, Đan Mạch…

Việt Nam là nước theo truyền thông luật dân sự, nhưng pháp luật về Trọng tài cũng có lịch sử phát triển riêng của nó. Vì vậy, dù có những tương đồng, vẫn không thể áp dụng tất cả các nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành đối với hoạt động của Trọng tài. Do đó, vẫn cần thiết phải xây dựng một Luật Trọng tài bên cạnh Bộ luật Tố tụng dân sự với những điểm chung trong thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tài phán kinh tế nhưng cũng phải thể hiện những nét riêng trong hoạt động của Trọng tài với tính chất tài phán phi chính phủ để phân biệt với tài phán nhà nước.

Nhìn chung, các nước trên thế giới đều quan niệm trọng tài là mô hình giải quyết tranh chấp quan trọng. Tổng thư ký Tòa án Trọng tài quốc tế (ICC) Jactson Fry đã khẳng định trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn có nhiều ưu thế, trong đó nổi bật là tính nhanh gọn, bí mật và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm.

Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, trải qua một thời gian áp dụng trong thực tế đã bộc lộ những bất cập nhất định đòi hỏi phải ban hành văn bản Luật thay thế.

Những nội dung cần đưa vào Luật Trọng tài: Thứ nhất, về thỏa thuận trọng tài

Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định hình thức thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản là phù hợp, nhưng chưa thể hiện hết được tính mở như quy định của Luật mẫu UNCITRAL và Luật trọng tài các nước. Theo quy định tại khoản 1 điều 9 Pháp lệnh thì các hình thức văn bản khác phải “thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài” mới được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản. Trong khi Luật mẫu và Luật trọng tài của nhiều nước đều quy định thỏa thuận trọng tài cũng được thừa nhận dưới hình thức qua trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài do một bên đưa ra và bên kia không phản đối hoặc việc dẫn chiếu trong hợp đồng tới một văn bản trong đó ghi nhận điều khoản trọng tài lập nên thỏa thuận trọng tài. Rõ ràng, có sự khác biệt về các dạng tồn tại của thỏa thuận trọng tài trong pháp lệnh trọng tài thương mại của Việt Nam và pháp luật trọng tài thương mại quốc tế. Điều này dẫn đến việc cùng một trường hợp về thỏa thuận hình thức trọng tài, nhưng trọng tài ở các nước khác được quyền giải quyết vụ tranh chấp theo thỏa thuận đó, còn trọng tài ở Việt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

Nam thì không, do đó đã hạn chế thẩm quyền của trọng tài thương mại của chúng ta.

Cần loại bỏ quy định tại khoản 4 điều 10 Pháp lệnh: Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi không quy định hoặc quy định không rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Luật mẫu và luật trọng tài không quy định vấn đề này.

Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 11

Thứ hai, về thẩm quyền trọng tài

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại phát sinh trên cơ sở thỏa thuận trọng tài do các bên tự nguyện xác lập. Tuy nhiên, không phải cứ có thỏa thuận trọng tài thì trọng tài thương mại sẽ được quyền giải quyết tranh chấp, mà phụ thuộc vào giới hạn của đối tượng trọng tài hay còn gọi là khả năng giải quyết bằng trọng tài. Theo quy định thì đối tượng trọng tài là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các chủ thể là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh (điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại và điều 1 Nghị định 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004).

Diện các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được xây dựng theo phương pháp liệt kê (quy định tại khoản 3 điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại) đã dẫn đến không bao quát được hết các lĩnh vực mà ở đó có thể phát sinh tranh chấp trong thực tế, do vậy đã hạn chế quyền tự do định đoạt của các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc giải quyết tranh chấp. Cách quy định “cứng” như vậy không phù hợp với cơ chế “mềm” và tính đa dạng, linh hoạt của hoạt động thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Do vậy, cần mở rộng phạm vi thẩm quyền trọng tài hơn nữa, các lĩnh vực trọng tài có thể giải quyết như: hôn nhân gia đình, xây dựng, phá sản, giám hộ, tranh chấp hành chính…

Thứ ba, về yêu cầu tòa án xem xét hủy quyết định trọng tài:

Sửa đổi, bổ sung điều 54 của pháp lệnh cho phù hợp với quy định tại điều 30 của pháp lệnh. Khoản 2 và khoản 4 điều 54 mâu thuẫn với điều 30 của pháp lệnh. Theo quy định tài khoản 2 và 4 thì các bên không bị hạn chế về quyền yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài vì lý do thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp trong khi đó, theo quy định tại điều 30 của pháp lệnh, khi có khiếu nại của một bên về việc Hội động trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp, vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng trọng tài phải xem xét, quyết định. Sau khi Hội đồng trọng tài xem xét và ra quyết định mà một bên không đồng ý thì có quyền yêu cầu tòa án xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài. Quyết định của tòa án là chung thẩm.

Vậy, nếu trong quá trình tiến hành tố tụng trọng tài, các bên có khiếu nại về việc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, về vụ tranh chấp không thuộc quyền của Hội đồng trọng tài, đã được Hội đồng trọng tài giải quyết bác khiếu nại, sau đó tòa án xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài trên cơ sở khiếu nại của một bên và ra quyết định giữ nguyên quyết định của Hội đồng trọng tài, quyết định này là chung thẩm mà các bên vẫn còn yêu cầu tòa án xem xét lại vấn đề này một lần nữa là không phù hợp về mặt lý luận pháp luật. Do vậy, nên sửa đổi bổ sung điều 54 của pháp lệnh theo hướng, khoản 2 và 4 bổ sung thêm đoạn: trừ trường hợp đã có quyết định giải quyết của tòa án theo quy định tại điều 30 của pháp lệnh này.

Ngoài ra, như đã phân tích tại chương 2, cần thu hẹp các căn cứ hủy quyết định trọng tài cho phù hợp với Luật mẫu UNCITRAL và pháp luật về trọng tài của các nước có bề dày lịch sử phát triển.

Thứ tư, về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Để khắc phục được những bất cập, vướng mắc về thu thập chứng cứ do người thứ ba nắm giữ, triệu tập nhân chứng và trách nhiệm của tòa án khi từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, về thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cần đưa vào Luật trọng tài quy định tòa án hỗ trợ trọng tài trong việc thu thấp chứng cứ đang do người thứ ba nắm giữ và triệu tập nhân chứng tham gia tố tụng trọng tài. Theo đó, các biện pháp khẩn cấp, tạm thời quy định tại điều 33 của pháp lệnh cần bổ sung thêm biện pháp: “thu thập chứng cứ đang do người thứ ba nắm giữ; triệu tập nhân chứng tham gia tố tụng”. Quy định này phù hợp với Luật mẫu UNCITRAL (điều 27) và luật trọng tài của một số nước trên thế giới.

Thứ năm, về lựa chọn pháp luật nước ngoài, áp dụng pháp luật nước ngoài và lựa chọn trọng tài viên nước ngoài.

Theo quy định tại điều 49 Pháp lệnh, đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên nước ngoài và lựa chọn pháp luật nước ngoài, còn tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân Việt Nam thì quyền này không được thừa nhận. Quy định này nhằm tạo ra sự hấp dẫn của trọng tài thương mại đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng thực tế lại không hoàn toàn như vậy, thậm chí là mâu thuẫn với chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bởi lẽ, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư thì khi nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì phải thành lập doanh nghiệp dưới hình thức liên doanh với các nhà đầu tư khác hoặc thành lập pháp nhân 100% vốn nước ngoài. Cũng theo các luật này, thì pháp nhân mà được thành lập theo pháp luật Việt Nam thì được coi là pháp nhân Việt Nam và như vậy tranh chấp nếu có xảy ra thì không được coi là tranh chấp có yếu tố nước ngoài.

Tóm lại, để quyết định trọng tài có thể thi hành đạt hiệu quả cao trên thực tế, đòi hỏi quyết định trọng tài phải là sản phẩm có chất lượng của hoạt động xét xử trọng tài.

Vì vậy, khắc phục những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 và pháp điển hóa thành luật là yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách.

Luật Trọng tài phải là sự kế thừa của pháp lệnh trọng tài trước đó, tiếp thu những kinh nghiệm của các nước hệ thống trọng tài phát triển, tiệm cận tối đa các quy định của Luật mẫu UNCITRAL.

Các nội dung cần đưa vào luật trọng tài đó là: Mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tiêu chuẩn trọng tài, hạn chế các điều kiện hủy quyết định trọng tài, giảm thiểu tối đã thời gian xét xử trọng tài…. , các quy định của pháp luật trọng tài phải cụ thể, tránh tình trạng quy định chugn chung, nhiều nghĩa. Tuy nhiên, kế thừa nhưng phải có chọn lọc để cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước và quan trọng hơn cả là phải phù hợp với chế độ chính trị của nước ta. Mở rộng phạm vi trọng tài không có nghĩa là nước ngoài như thế nào thì nước mình cũng như vậy. Nhà nước ta cũng cần bảo lưu một số loại tranh chấp liên quan đến con người, tình trạng cá nhân, lao động, phá sản, phát minh và nhãn hiệu hàng hóa...không cho phép giải quyết bằng trọng tài.

3.3.3. Các giải pháp chung

* Quy chế hỗ trợ của tòa án để đảm bảo thực hiện các lệnh của trọng tài

Trong các biện pháp hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài, thì việc thực hiện các yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo hiệu lực của quyết định trọng tài đóng vai trò quan trọng. Trên thế giới, hiện nay có hai phương thức phổ biến:

- HĐTT hoặc trọng tài viên duy nhất tự ra quyết định yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, mà tòa án chỉ là cơ quan xem xét và cho thực hiện yêu cầu đó (điều 12 Luật trọng tài quốc tế Singapore, điều 17 Luật mẫu UNCITRAL).

- HĐTT, trọng tài viên duy nhất hoặc các bên tranh chấp có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, ví dụ: Điều 28 Luật trọng tài Trung Quốc quy định: Một trong các bên có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời bảo toàn tài sản, nếu có hành vi của bên kia hoặc vì lý do nào khác làm cho việc thi hành không thể tiến hành được hoặc gặp khó khăn; Luật trọng tài Mỹ tại điều 8 có quy định: Các bên có thể bắt đầu vụ kiện bằng đơn yêu cầu tòa án hải quân tịch thu tàu hoặc tịch biên tài sản khác của bên kia theo quy trình tố tụng thông thường tại tòa án hải quân và tòa án sẽ có thẩm quyền ra lệnh cho các bên tiến hành trọng tài.

Liên quan đến vấn đề hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài, thông thường luật trọng tài các nước quy định trọng tài có thẩm quyền ra các lệnh sau:

- Bảo đảm chi phí trọng tài;

- Bảo quản, tạm giữ hoặc phát mại bất cứ đồ vật nào là đối tượng chính của tranh chấp đang được phân xử;

- Phong tỏa số tiền đang tranh chấp trong vụ việc đang giải quyết;

- Cầm giữ, bảo quản hay kiểm tra bất cứ tài sản hay đồ vật nào là đối tượng giải quyết trọng tài;

- Chỉ định người quản lý tài sản nhằm bảo vệ mục đích của vụ kiện với điều kiện là không được sử dụng quy định trong điều khoản này để gây tổn hại cho các quyền được giao cho Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất.

Đối với Việt Nam, hiện nay đã đưa vào pháp lệnh trọng tài thương mại việc cho phép các bên tranh chấp yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời. Tuy nhiên, theo chúng tôi cần phải kết hợp giữa hai cách làm trên của các nước trên thế giới, tức cho phép nguyên đơn, bị đơn yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng trong quá trình giải quyết vụ việc, nếu thấy cần thiết HĐTT hoặc trọng tài viên duy nhất cũng có thể yêu cầu tòa án áp dụng hay hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

* Về cơ cấu các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự

Những quy định về thủ tục thi hành án trước đây được quy định tại Chương 3 PLTHADS gồm 19 điều áp dụng chung cho cả thi hành án dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động và phần dân sự trong bản án hình sự và hành chính. Có thể thấy, so với tính chất phức tạp và đa dạng của việc thi hành các bản án, quyết định dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh thương mại; lao động, quyết định trọng tài thương mại…Các quy định này trong PLTHADS là chưa tương xứng, chưa tính đến đặc thù của từng loại việc, cho nên chưa đáp ứng được yêu cầu của việc thi hành mỗi loại án cụ thể này. Đặc điểm của đối tượng thi hành án dân sự là các quyết định dân sự (theo nghĩa rộng) mang tính chất tài sản và nhân thân; còn đặc điểm của thi hành án hình sự là hình phạt và các biện pháp tư pháp khác; thi hành án hành chính là thi hành các quyết định liên quan đến các cơ quan nhà nước. Vì vậy, các quy định về thủ tục thi hành án dân sự phải tính đến những đặc điểm chung của các loại bản án, quyết định đó, đồng thời phải tính đến đặc thù của từng loại bản án, quyết định, các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án cần phải tách bạch thành hai phần khác nhau: phần những quy định chung về thủ tục thi hành án và phần những quy định cụ thể về thủ tục thi hành án đối từng loại thủ tục thi hành án dân sự, thi hành án kinh doanh, thương mại, thi hành án lao động và thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự và hành chính. Cách quy định này về mặt khoa học sẽ rất rõ ràng và thực tế các cơ quan thi hành án sẽ dễ áp dụng.

Xem tất cả 111 trang.

Ngày đăng: 06/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí