Trong phần những quy định chung về thủ tục thi hành án là phần cần quy định những vấn đề chung nhất để từ đó thực hiện thủ tục, cách thức thi hành bản án, quyết định dân sự như: bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành; căn cứ thi hành án; thời hiệu thi hành án; thẩm quyền ra quyết định thi hành án; thông báo quyết định thi hành án; quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án; quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án; quyền và nghĩa vụ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan … Phần thứ hai về thủ tục thi hành án, cần chia thành các chương, mỗi chương quy định về đặc thù của từng loại hình thi hành án. Theo chúng tôi có thể chia thành các chương sau: Thủ tục thi hành án dân sự và hôn nhân gia đình ; thủ tục thi hành án kinh doanh thương mại (bao gồm việc thi hành các bản án của cả tòa án và quyết định của trọng tài) ; thủ tục thi hành án phá sản ; thủ tục thi hành án lao động; thủ tục thi hành án hành chính ; thủ tục thi hành án hình sự.
Tới đây, để phù hợp với xu thế chung, trọng tài thương mại ở Việt Nam sẽ có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không bó hẹp trong sự liệt kê một số tranh chấp như hiện nay. Như vậy, nhìn tổng quát thì các tranh chấp này đều thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh chứ không phải thuộc lĩnh vực dân sự. Các tranh chấp kinh tế có đặc trưng là giá trị tài sản lớn, cần được giải quyết nhanh để đảm bảo uy tín và cơ hội kinh doanh cho các bên tranh chấp. Với các đặc trưng này cần quy định về đơn yêu cầu, thời hạn tự nguyện thi hành, các biện pháp kê biên, cưỡng chế thi hành nhằm đảm bảo bình đẳng, nhanh, giữ uy tín cho các bên tranh chấp, nhưng ngăn chặn được việc tẩu tán tài sản của bên phải thi hành.
Trước mắt, liên quan đến thi hành quyết định trọng tài cần được chú ý để quy định một số vấn đề mang tính đặc trưng sau:
- Về một số thủ tục như: Nộp đơn yêu cầu thi hành quyết định trọng tài, trả đơn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành trong quá trình cơ quan thi hành án tổ chức
thi hành quyết định của trọng tài cần quy định thời gian ngắn hơn, thủ tục đơn giản hơn so với việc thi hành án theo quy định thi hành án dân sự hiện hành.
- Quy định về kê biên tài khoản, tài sản của doanh nghiệp để đảm bảo thi hành phải có đặc trưng khác với kê biên tài sản thông thường của công dân nhằm đảm bảo giải quyết vụ việc nhanh và tránh việc tẩu tán tài sản của bên phải thi hành.
- Cần cải cách để giảm đáng kể những yêu cầu về định giá tài sản của người phải thi hành án hiện đang tạo gánh nặng và gây trì hoãn cho việc thi hành án.
- Nên sửa đổi các quy định về bán đấu giá để tăng cường hiệu quả việc bán đấu giá và đáp ứng yêu cầu quyết định trọng tài. Điều đó có nghĩa là hướng tới một cơ chế mà mặc dù tài sản của người phải thi hành án có nguy cơ bị bán ở một mức giá thấp hơn nhiều so với giá trị, nhưng bù lại sẽ tạo động cơ mạnh mẽ hơn để người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hơn và như vậy, có thể giảm toàn bộ thời gian và chi phí.
- Có hướng dẫn cụ thể hơn về kê biên cổ phần, tài sản góp vốn trong các tổ chức kinh tế để đảm bảo thi hành các quyết định trọng tài.
- Cần phải có quy định cụ thể về việc xác minh điều kiện thi hành án, trong đó nên quy định thời hạn xác minh thi hành án và trách nhiệm xác minh: Về nguyên tắc, việc thi hành án trước hết phải tôn trọng và khuyến khích sự tự nguyện của các đương sự. Chỉ sau khi hết thời hạn do chấp hành viên ấn định mà các đương sự có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án thì cơ quan thi hành án mới áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, trừ các trường hợp do pháp luật quy định. Vấn đề mấu chốt ở chỗ, cơ quan thi hành án phải xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì mới có thể nghĩ đến việc áp dụng biện pháp cưỡng chế gì và xây
Có thể bạn quan tâm!
- Các Thiết Chế Liên Quan Đến Việc Thi Hành Quyết Định Trọng Tài Thương Mại
- Các Điều Kiện Đảm Bảo Vận Hành Cơ Chế Thi Hành Quyết Định Trọng Tài
- Đối Với Thi Hành Quyết Định Của Trọng Tài Thương Mại Việt Nam
- Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
dựng kế hoạch tổ chức cưỡng chế. Xác minh trong thực tiễn thi hành án là vấn đề vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc thi hành án có thành công hay không. Hiện tại, điều 42 Luật Thi hành án đã quy định vấn đề này. Thực tiễn hoạt động thi hành án, các cán bộ thi hành án cũng thường chỉ tiến hành xác minh qua kinh nghiệm, có cơ quan thi hành án xác minh trong thời hạn đương sự tự nguyện thi hành án, có cơ quan thi hành án xác minh khi hết thời hạn đương sự tự nguyện thi hành án… Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn chi tiết nên quy định cụ thể hơn vè vấn đề này.
- Cần giảm thiểu tối đa các căn cứ hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án.
Mặt khác, cần thúc đẩy nhanh quá trình ban hành các văn bản hướng dẫn Luật thi hành án, trong đó hướng dẫn cụ thể, chi tiết việc thi hành các quyết định trọng tài trong nước cũng như quyết định của trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
- Về việc hủy quyết định trọng tài theo hướng, cho thi hành quyết định trọng tài theo hướng không cần thiết phải mở phiên tòa, bởi lẽ:
Việc xem xét tại tòa án quyết định trọng tài là xem xét về mặt thủ tục, chứ không xét lại nội dung giải quyết tranh chấp của trọng tài. Vậy nên, khi nhận được hồ sơ yêu cầu hủy hoặc cho thi hành quyết định trọng tài, tòa án chỉ cần căn cứ theo quy định của pháp luật mà ra quyết định hủy quyết định trọng tài hay bác đơn yêu cầu hoặc cho thi hành quyết định trọng tài, chứ không cần thiết mở phiên tòa. Việc không mở phiên tòa vừa tiết kiệm về thời gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp, vừa đảm bảo cơ hội kinh doanh, uy tín cho họ. Trên thế giới, một số nước cũng áp dụng thủ tục này như ở Brazil là một ví dụ.
Mặt khác, quyết định hủy, cho công nhận quyết định trọng tài hoặc bác đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài có giá trị như bản án, quyết định khác của tòa án. Tuy nhiên, cũng cần có quy định quyết định trọng tài có thể được phúc thẩm, giám đốc thẩm như quyết định khác của tòa án để đảm bảo tính chính xác của quyết định tòa án và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên tranh chấp. Thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm được áp dụng theo thủ tục tố tụng tại tòa án. Tuy nhiên, theo chúng tôi thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm không nên áp dụng thủ tục tố tụng dân sự, vì rườm rà và kéo dài thời gian, mà nên quy định thủ tục này theo hướng rút ngắn về mặt thời gian; đồng thời, cơ chế này là một cơ chế một lần trong xét xử, tức quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm phải chứa đựng nội dung giải quyết vụ việc, chứ không theo kiểu hủy quyết định giải quyết trước để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.
* Về trách nhiệm của cơ quan công an, tòa án, Viện Kiểm sát trong công tác thi hành quyết định trọng tài: Sự phối hợp giữa cơ quan công an, tòa án, Viện kiểm sát với các cơ quan thi hành án có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều trường hợp do chưa có những quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này nên việc thi hành án cũng gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định, cụ thể như trong việc đề nghị giải thích, đính chính quyết định của tòa án, vấn đề kháng nghị, hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giám sát thi hành án; vấn đề hỗ trợ cưỡng chế thi hành án… Do vậy, cần có quy định cụ thể hơn nữa nghĩa vụ của tòa án, Viện Kiểm sát, công an để tạo cơ chế phối hợp hiệu quả trong việc tổ chức thi hành quyết định trọng tài cũng như giải quyết khiếu nại, tố cáo của các đương sự liên quan. Đặc biệt, cần bổ sung đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm của tòa án trong quá trình thi hành án, có thể nghiên cứu xây dựng thiết chế „thẩm phán thi hành án” như kinh nghiệm của các nước nhằm giải quyết kịp thời có hiệu quả những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thi hành án.
* Về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức khác: Trong quá trình thi hành quyết định trọng tài, ngoài việc cơ quan thi hành án cần nhận được sự hỗ trợ mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án thì sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác ngoài các cơ quan nêu trên cũng hết sức cần thiết. Với đặc thù riêng của mình, hoạt động thi hành quyết định trọng tài rất cần thiết nhận được sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức sau: Cơ quan nhà đất, các tổ chức ngân hàng, tổ chức tín dụng…Đây là những cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến vấn đề xác minh điều kiện thi hành án. Trên thực tế, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức này là chưa tốt, có những ngân hàng còn tỏ ra bất hợp tác, bảo vệ, bao che hành vi không thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án. Vì vậy, cần có một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn nữa, cần trao cho chấp hành viên một “quyền uy” hơn nữa trong việc đề nghị phối hợp, cần có chế tài mạnh hơn nữa và quan trọng hơn các chế tài này phải được áp dụng, thực thi trên thực tế.
* Tiếp tục ký kết các điều ước khu vực và hiệp định song phương trong đó có quy định về thi hành quyết định trọng tài. Tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế về thi hành quyết định trọng tài, tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật cho công tác nghiên cứu, đề xuất việc hoàn thiện thể chế, thủ tục thi hành quyết định trọng tài.
Hiện tại, ngoài việc tham gia Công ước New York 1958, Việt Nam đã ký hiệp định song phương với khoảng hơn hai mươi nước như Liên bang Nga, Séc, Cu ba, Hungari, Ba Lan, Trung Quốc, trong đó có liên quan đến vấn đề công nhận và cho thi hành đối với quyết định trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, chủ yếu là với các nước xã hội chủ nghĩa, nhiều nước chưa tham gia Công ước New York 1958, nhưng Việt Nam cũng chưa có hiệp định song phương về vấn đề này. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu để tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài của các nước khác, những nước chưa tham gia Công ước New York 1958. Đồng thời, cũng
cần thiết phải tăng cường việc ký kết các điều ước song phương về vấn đề công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài với các nước có quan hệ giao lưu dân sự, kinh tế với Việt Nam.
* Về cơ quan thi hành án dân sự:
(i) Nên thiết lập một cơ quan thi hành án duy nhất từ trung ương đến tỉnh và huyện chịu trách nhiệm và có thẩm quyền pháp lý để thi hành mọi bản án trên toàn quốc và ở địa phương. Thẩm quyền của các cán bộ thi hành án nên bao gồm quyền bắt giữ, sử dụng vũ lực để tịch thu tài sản và chỉ được sử dụng vũ khí để bảo về chính mình và những người khác khi thi hành án dân sự.
(ii) Pháp luật nên quy định cụ thể việc miễn trừ trách nhiệm cá nhân đối với các cán bộ thi hành án liên quan đến các quyết định và hành động công tâm, phù hợp với nội dung được đào tạo, thủ tục thi hành án và quy tắc thi hành án.
(iii) Lực lượng cảnh sát tư pháp sau khi được củng cố, tăng cường, nên có vai trò cụ thể và thuộc hệ thống thi hành án. Một phương án tạm thời là tăng cường thẩm quyền của cán bộ thi hành án như đã nêu tại điểm (i) ở trên.
(iv) Cần tăng cường thẩm quyền cho cơ quan thi hành án song song với cải cách thủ tục hành chính, tăng nguồn lực, và hạn chế quyền quyết định tuỳ ý của cơ quan thi hành án.
(v) Pháp luật phải quy định rằng trách nhiệm duy nhất của cơ quan Thi hành án là thi hành quyết định trọng tài ngay lập tức và không do dự khi người được thi hành án yêu cầu. Việc quy định này là hết sức cần thiết, bởi đặc điểm của sản xuất kinh doanh là tính thời điểm, cơ hội kinh doanh. Một phán quyết trọng tài nếu không được thi hành ngay sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đồng vốn của doanh nghiêp sẽ không quay vòng và sinh lời được.
* Về tổ chức, cán bộ: Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, tập trung kiện toàn cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ quan thi hành án; bổ sung biên chế cho cơ quan thi hành án dân sự để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Triển khai thành lập các đơn vị trực thuộc đơn vị thi hành án dân sự cấp tỉnh, khắc phục tình trạng thiếu thủ trưởng cơ quan thi hành án ở cả cấp tỉnh và cấp huyện, bổ nhiệm chức danh thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm tra viên cao cấp ở các cơ quan thi hành án địa phương. Sớm chấm dứt tình trạng cơ quan thi hành án chỉ có một chấp hành viên ở một số địa phương như hiện nay. Tuyển dụng đủ biên chế cho các cơ quan thi hành án nhằm từng bước khắc phục tình trạng quá tải công việc và đảm bảo yêu cầu cử cán bộ đi đào tạo bồi dưỡng theo kế hoạch. Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan thi hành án nhằm nâng cao trách nhiệm của chấp hành viên, cán bộ, công chức thi hành án trong việc thực thi nhiệm vụ. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra trong nội bộ cơ quan thi hành án, tổ chức kiểm tra liên ngành nhằm kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp cán bộ, công chứng vi phạm chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có biểu hiện nhũng nhiễu, tiêu cực, cố tình để chậm chễ kéo dài việc thi hành án. Phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban chỉ đạo thi hành án dân sự ở địa phương.
Đối với việc đào tạo, bồi dưỡng thi hành án: Trình độ chuyên môn và phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ thi hành án quyết định chất lượng công tác thi hành án, đồng thời việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự sẽ không phát huy tác dụng nếu trình độ phẩm chất cán bộ thi hành án không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện thể chế về thi hành án cần chú trọng quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng thi hành án. Cần tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan thi hành án. Nâng
cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ cho các cơ quan thi hành án dân sự, đặc biệt là những cán bộ là nguồn bổ nhiệm chấp hành viên, để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ thi hành án có kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức thực tiễn, phẩm chất, đạo đức trong sạch và dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
* Thực hiện kết hợp giữa vai trò của nhà nước và xã hội hóa thi hành quyết định của trọng tài
Đối với các quyết định của trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam cũng như các quyết định của trọng tài thương mại trong nước đều do cơ quan thi hành án dân sự thi hành nếu các bên đương sự không tự nguyện. Tuy nhiên, việc Nhà nước ôm đồm như vậy làm cho cơ quan công quyền thực hiện quá nhiều việc mà các cơ quan, tổ chức phi nhà nước có thể thực hiện được, dẫn đến nhà nước thực hiện không xuể hoặc không có điều kiện để làm tốt những việc này.
Xã hội hóa công tác thi hành án dân sự là một chủ trương lớn của Đảng được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng nhưng Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 chưa có điều kiện cụ thể hóa đầy đủ chủ trương này cũng như quy định cụ thể về chế định thừa hành viên trong hoạt động thi hành án. Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc xã hội hóa công tác thi hành án ở một chừng mực nhất định không chỉ thể hiện tính tích cực ở việc giảm thiểu một số khâu, thủ tục, giảm sự can thiệp, chi phí của nhà nước trong quá trình thi hành án mà còn tạo cơ hội, thuận lợi cho công dân bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quyết định trọng tài.
Bên cạnh việc xây dựng, không ngừng củng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan thi hành án chuyên trách ngày càng vững mạnh cũng cần nghiên cứu xu hướng xã hội hóa một số mặt, lĩnh vực hoạt động của nhà nước nói chung và thi hành án nói riêng. Cần nghiên cứu, xác định mức độ can thiệp “bao cấp‟ của nhà nước đối với hoạt động thi hành án, nêu rõ căn cứ, giới hạn, hình thức