Luật Quốc Tế Và Luật Quốc Gia Trong Việc Bảo Vệ Quyền Con Người.

Quyền đạt tới một tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất được công ước ghi nhận và để bảo đảm quyền này các quốc gia phải có nghĩa vụ quan tâm đến mọi yếu tố có tác động đến sức khoẻ của cộng đồng.

Quyền được học tập là một quyền quan trọng của quyền kinh tế văn hoá xã hội. Giáo dục không mất tiền là hình thức công ước hướng tới quyền giáo dục còn được thể hiện ở việc lựa chọn các hình thức giáo dục khác nhau như việc có quyền tham gia vào các trường không nằm trong hệ thống giáo dục của nhà nước. Quyền về giáo dục còn bao gồm cả việc thành lập và điều hành các cơ quan giáo dục. Việc thành lập các đơn vị giáo dục này phải đáp ứng yêu cầu của nhà nước về tiêu chuẩn giáo dục. Giáo dục không mất tiền ở bậc tiểu học là quyền của mọi người. Việc giáo dục không mất tiền còn được công ước đề cập đến ở bậc Đại học.

Quyền tham gia đời sống văn hoá bao gồm: Quyền được hưởng các lợi ích tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó. Các quyền phát sinh từ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật được bảo vệ. Quyền tự do sáng tạo các loại hình nghệ thuật văn hoá được công nhận.

Quyền dân sự chính trị và quyền kinh tế văn hoá xã hội là những quyền gắn chặt với đời sống con người. Bên cạnh những quyền mang tính bao trùm đời sống con người này, quyền con người còn được bảo vệ theo từng nhóm.

3.1.4. Quyền của nhóm người.

Quyền của nhóm người được bảo vệ dựa trên đặc điểm của từng nhóm. Thông thường trong xã hội luôn luôn có những người cần có những biện pháp bảo vệ vì lý do thể chất, do tuổi, giới tính.

Trong lịch sử sau khi trải qua thời kỳ mẫu hệ, vị trí của người phụ nữ trong xã hội luôn luôn bị xem nhẹ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ tồn taị và phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển. Nhằm bảo vệ phụ nữ khỏi sự bất bình đẳng công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ được đại hội đồng thông qua ngày 18/12/1997 nhằm thúc đẩy sự bình đẳng giữa nam và nữ. Công ước nhấn mạnh vai trò của quốc gia trong việc bảo vệ sự bình đẳng giữa nam và nữ. Bảo vệ sự bình đẳng của phụ nữ cần phải đưa vào trong luật pháp mà trước tiên là hiến pháp. Các quốc gia cần áp dụng

những biện pháp thích hợp khác nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ.

Trong lĩnh vự đời sống chính trị xã hội việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ cần diễn ra trên các lĩnh vực như: Bảo đảm việc tham gia bỏ phiếu trong tất cả các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý và quyền được ứng cử vào tất cả các cơ quan dân sự. Được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách củ chính phủ, tham gia các chức vụ Nhà nước và thực hiện mọi chức năng công cộng ở mọi cấp chính phủ, cũng như trong hoạt động của chính phủ trên phạm vi quốc tế.

Việc đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ cần được tiến hành trên lĩnh vực giáo dục. Trong tất cả các trường học ở thành thị và nông thôn cần áp dụng chương trình giảng dạy và kiểm tra thi cử như nhau, không có sự phân biệt giữa nam và nữ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Nam và nữ đều bình đẳng trong lĩnh vực việc làm. Bình đẳng cần áp dụng trong lĩnh vực tự do lựa chọn việc làm, quyền được phát triển nghề nghiệp và hưởng phúc lợi cũng như thời gian làm việc. Nam và nữ đều được hưởng thù lao như nhau cho những công việc như nhau. Việc phân biệt phụ nữ vì lý do hôn nhân hay sinh đẻ phải được bãi bỏ. Phụ nữ cần được hưởng những chế độ riêng khi nghỉ vì lý do sinh đẻ.

Sự bình đẳng trong các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội phải được bảo đảm. Phụ nữ có quyền được hưởng phúc lợi gia đình, họ được quyền vay tiền của ngân hàng cầm cố tài sản và tham gia các hình thức tín dụng khác. Phụ nữ ở nông thôn được quan tâm một cách đặc biệt trong khu vực kinh tế không tính thành tiền. Phụ nữ nông thôn cần được quan tâm trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển ở các cấp, được hưởng việc chăm sóc sức khoẻ và tư vấn dịch vụ kế hoạch hoá, được hưởng các chương trình bảo hiểm xã hội …

Cơ chế quốc tế đảm bảo quyền con người - 4

Quyền bình đẳng trước pháp luật phải được đảm bảo. Nam và nữ có quyền như nhau liên quan đến việc đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú và nơi ở . Quyền bình đẳng trong các vấn đề hôn nhân và gia đình cần được đảm bảo trên cơ sở bình đẳng nam và nữ trong quan hệ gia đình vợ và chồng có quyền như nhau trong

việc lựa chọn tên họ và làm chủ bản thân và việc sở hữu thu nhận kiểm soát, quản lý và hưởng thụ tài sản.

Như vậy để bảo đảm sự không bị phân biệt đối với phụ nữ, quyền bình đẳng của phụ nữ cần được tiến hành trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, đời sống, văn hoá xã hội và trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.

Song song với quyền phụ nữ, quyền trẻ em là quyền nhóm được dựa trên cơ sở độ tuổi. Rõ ràng mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau nhưng trẻ em là những người chưa phát triển hoàn chỉnh về thể chất vì vậy trong xã hội cần có quy chế bảo vệ riêng biệt để trẻ em có được sự bình đẳng với những thành viên xã hội khác. Quyền trẻ em được tập hợp đầy đủ trong công ước về quyền trẻ em được đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 – 11 – 1989. Trẻ em theo công ước xác định là những người dưới 18 tuổi. trẻ em không bị phân biệt đối xử vô lý vì những lý do xuất phát từ gia đình: Các quốc gia thành viên phải thi hành mọi biện pháp thích hợp để đảm bảo cho trẻ em được bảo vệ tránh khỏi hình thức phân biệt đối xử , hoặc trừng phạt vì lý do về địa vị, hoạt động, những ý kiến phát biểu được tín ngưỡng của cha mẹ, của nguồn gốc. Do hạn chế về độ tuổi nên trẻ em cần có thời gian phát triển để trở thành những người có thể chất và nhận thức đầy đủ. Chính vì vậy trong mọi hoạt động với trẻ em cần có sự quan tâm đặc biệt dù của Nhà nước hay tư nhân.

Quyền sống là quyền quan trọng của con người, vì vậy quyền sống của trẻ em được bảo vệ. trong xã hội có nhiều yếu tốt có thể ảnh hưởng đến quyền sống của trẻ em, như vấn đề chiến tranh, tôn giáo, bạo lực… Trẻ em có thể bị tước đoạt sinh mạng do chiến tranh, bạo lực và lý do tôn giáo hay do những tập tục lạc hậu. Chính vì vậy mà quyền sống của trẻ em cần phải được bảo vệ. Trẻ em bảo vệ quyền sống đồng thời có quyền được giữ gìn bản sắc của mình như quốc tịch, họ tên và các quan hệ gia đình khác. Trẻ em không bị buộc phải cách ly cha mẹ. Vì những lý do nhân đạo trẻ em có thể cách ly khỏi cha mẹ. Việc này chỉ được tiến hành khi bị cha mẹ xúc phạm hay xao nhãng, hoặc khi cha mẹ sống ly thân. Trẻ em được quyền xuất hoặc nhập cảnh vì mục đích đoàn tụ gia đình.

Trẻ em còn có những quyền liên quan đến việc hình thành quan điểm hoặc có quyền biểu thị tôn giáo, tín ngưỡng của riêng mình. trẻ em có quyền hình thành quan điểm riêng của mình và có quyền tự do phát biểu ý kiến về mọi vấn đề có tác dụng đến trẻn em. Trẻ em phải được tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình trong quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính có tác động đến trẻ em. Quyền tự do bày tỏ ý kiến của trẻ em bao gồm việc tự do tìm kiếm, nhận và phổ biến mọi loại thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau. Quyền tự do tín ngưỡng, tư tưởng và tôn giáo của trẻ em được bảo vệ. Điều này có nghĩa trẻ em có quyền lựa chọn theo hoặc không theo ai có thể can thiệp vào việc theo một tín ngưỡng tôn giáo nào của trẻ em. trẻ em được quyền vì đời sống riêng tư mà không bị xâm phạm một cách bất hợp pháp. Quyền thu nhận thông tin được bảo vệ. Những thông tin có hại cho trẻ em cần phải bị ngăn cấm.

Trẻ em có quyền được phát triển lành mạnh thể chất lẫn tinh thần chính vì vậy trẻ em cần được vệ để tránh khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần gây tổn thương hay xúc phạm đến trẻ em. Sự bóc lột ngược đãi xâm phạm tình dục cần phải được ngăn chặn để bảo đảm sự phát triển bình thường của trẻ em. Chế độ nuôi con, nuôi chỉ được tiến hành với việc này thực sự mang lại sự phát triển lành mạnh cho trẻ em. Trẻ em được thừa nhận quyền được giáo dục, quyền không bị bóc lột, quyền có mức sống đủ để phát triển, quyền được phát triển tối đa nhân cách tài năng, quyền được vui chơi và tiêu khiển, tham gia vào các hoạt động giải trí phù hợp với mọi lứa tuổi. Trẻ em được bảo đảm quyền không bị lạm dụng tình dục cũng như không liên quan đến những hoạt động về ma tuý. Trẻ em không bị tra tấn và không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc trung thân. Khi bị mất quyền tự do trẻ em được đòi trả nhân đạo.

Như vậy có thể thấy rằng trẻ em có những quyền riêng biệt so với những thành viên khác trong xã hội. Những quyền này nhằm đảm bảo sự phát triển bình thường của trẻ em.

Ngoài quyền phụ nữ và trẻ em, quyền con người còn được bảo vệ theo nhóm như quyền của dân tộc thiểu số, quyền người tệ nạn. Theo thống kê của Liên

Hiệp Quốc thì hiện nay trên thế giới có khoảng 300.000.000 người thuộc các sắc tộc thiểu số trong khoảng 3000 cộng đồng thiểu số.

Những người thuộc sắc tộc thiểu số được hưởng đầy đủ những quyền đã nêu trong tuyên ngôn về quyền con người và trong công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc. Quyền dân tộc thiểu số được bảo vệ trên các lĩnh vực.

Bảo vệ và phát triển những đặc điểm bản sắc dân tộc và đặc điểm văn hoá và những đặc điểm riêng khác.

Quyền được bảo vệ chống lại nạn diệt chủng

Quyền được bảo vệ về các vấn đề liên quan đến tôn giáo, ngôn ngữ và giáo dục. Quyền được làm chủ sở hữu và sử dụng đất đaicủa mình và những nguồn tài nguyên khác.

Quyền được duy trì cấu trúc kinh tế truyền thống và những cảnh sống bao gồm việc săn bắn và hái lượm, câu cá, chăn nuôi và trồng trọt.

Quyền bảo vệ môi trường

Quyền tham gia đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước có liên quan đặc biệt là những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống.‌‌

Quyền được tự quyết định những vấn đề liên quan đến nội bộ và khu vực. Quyền được liên lạc và hợp tác về những vấn đề biên giới

Tôn trọng những hiệp ước, hiệp định bao gồm những vấn đề về người thiểu số. Sau quyền của những nhóm sắc tộc thiểu số quyền con người còn được bảo vệ cho nhóm những người bị nạn, quyền của người tàn tật. Tất cả quyền của nhóm đã góp phần tạo nên sự đa dạng về quyền và góp phần bảo vệ quyền con người một cách toàn diện và triệt để hơn nhằm tạo ra một sự bình đẳng giữa người với người, giữa những nhóm người với nhau.

4. Luật quốc tế và luật quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người.

4.1. Luật quốc tế

4.1.1. Một số vấn đề về luật quốc tế.

Luật quốc tế được xây dựng bởi các chủ thể của luật quốc tế mà chủ yếu là các quốc gia. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, luật quốc tế chủ yếu tồn tại dưới

dạng công ước quốc tế. Nếu như trong lĩnh vực quan hệ quốc tế nói chung luật quốc tế là công cụ điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể thì trong lĩnh vực quyền con người luật quốc tế lại chủ yếu điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia với các cơ quan tổ chức của Liên Hợp Quốc nhằm bảo vệ quyền con người.

Những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những nguyên tắc hành động của các chủ thể trong quan hệ quốc tế nói chung. Ngày 24 – 10 – 1970 đại hội đồng đã nhất trí thông qua bản tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế. Theo đó những nguyên tắc của luật quốc tế là.

1. Các quốc gia có nghĩa vụ phải hợp tác với nhau

2. Nguyên tắc các quốc gia bình đẳng về chủ quyền

3. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác

4. Nguyên tắc các dân tộc có quyền bình đẳng và tự quyết.

5. Nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe doạ vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập chính trị của các nước nhằm mục đích khác với hiến chương của Liên Hợp Quốc.

6. Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hoà bình.

7. Nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế.

Hiện nay có một số quan điểm cho rằng ngoài bảng nguyên tắc trên luật quốc tế còn có các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Thực tế cho thấy luật quốc tế có vị trí cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đã có hàng loạt các công ước quốc tế ra đời nhằm bảo vệ quyền con người. Cho tới nay vấn đề bảo vệ quyền con người được quan tâm hơn bao giờ hết và trở thành một trong những vấn đề lớn mang tính toàn cầu. Tuy nhiên nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người chưa được công nhận rộng rãi là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Trong những năm gần đây tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, điều này đặt ra việc phải có sự bổ sung đối với những nguyên tắc của luật quốc tế cho phối hợp với tình hình mới.

Như vậy có thể thấy rằng luật quốc tế được thực hiện dựa trên bảy nguyên tắc cơ bản. Trong lĩnh vực quyền con người những nguyên tắc này là cơ sở để thực hiện những công ước quốc tế về quyền con người. Nếu như nguyên tắc về

quyền con người trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thì sẽ nâng cao hiệu quả và luật quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người.

Chủ thể cũng là một vấn đề quan trọng của luật quốc tế. Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể, chủ thể của luật quốc tế trước tiên và chủ yếu là các quốc gia độc lập có chủ quyền. Một trong những chủ thể khá phổ biến hiện nay của luật quốc tế là các tổ chức quốc tế kiên chính phủ. Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết cũng là chủ thể của luật quốc tế. Loại chủ thể này hiện nay không phải là chủ thể phổ biến dựa trên những quan hệ điều chỉnh này người ta xác định được chủ thể tham gia các quan hệ quốc tế.

Vấn đề chủ thể đã có sự thay đổi mạnh mẽ từ khi luật quốc tế nhân quyền ra đời và phát triển. Nội dung các công ước quốc tế luôn luôn thể hiện yêu cầu các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các quyèen của con người. Điều hai công ước về quyền dân sự và chính trị có viết: “Mỗi quốc gia thành viên của công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của các quyền đã được công nhận trong công ước này…”

Như vậy có thể thấy rằng các công ước về quyền con người điều chỉnh cả các quan hệ giữa quốc gia và các cá nhân.

Bên cạnh các nghĩa vụ quốc tế khi quốc gia tham gia ký kết các công ước quốc tế, quốc gia thành viên còn phải đảm bảo thực hiện những nghĩa vụ liên quan đến quyền con người trong phạm vi chủ quyền của quốc gia mình. Quyền con người phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của một quốc gia cho dù hiệu lực của luật quốc tế có hiệu lực trực tiếp hay gián tiếp trên lãnh thổ quốc gia thì các quốc gia vẫn giữ vị trí quyết định trong việc bảo vệ quyền con người ở quốc gia mình. Khi xem xét vấn đề chủ thể của luật quốc tế có nhiều vấn đề đặt ra trong lĩnh vực luật quốc tế về quyền con người. Nếu như luật quốc tế có đối tượng điều chỉnh là quan hệ giữa quốc gia với nhau. Quan hệ giữa quốc gia với các tổ chức quốc tế liên chính phủ và quan hệ quốc gia với các dân tộc đang đòi quyền dân tộc tự quyết thì trong lĩnh vực luật nhân quyền quốc tế quan hệ giữa quốc gia và cá nhân trong lĩnh vực bảo vệ và thực hiện quyền được luật quốc tế điều chỉnh. Có những quan điểm cho rằng nếu công nhận thể nhân là chủ thể của luật quốc tế sẽ dẫn đến việc coi thường và

xâm phạm chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên xét trên góc độ khoa học pháp lý thì chủ thể trong pháp luật nói chung là những bên tham gia vào quan hệ pháp luật.

Theo L. Oppenheim, một luật sư nổi tiếng thì “.. Trong một phần nhận thức trên cơ sở thực tế, có một khuynh hướng xử sự với cá nhân trong một phạm vi hẹp như một chủ thể của luật quốc tế ”.

Tại điều 23 công ước châu âu về bảo vệ quyền con người và nền tảng tự do có xác định uỷ ban nhân quyền châu âu có thể nhận đơn yêu cầu của cá nhân, tổ chức phi chính phủ và nhóm người là nạn nhân của việc xâm phạm các quốc gia thành viên. Điều 1 của hiệp ước châu Âu liên quan đến thể nhân tham gia thủ tục của uỷ ban Châu Âu và toà án Châu Âu có hiệu lực ngày 6 tháng 3 năm năm 1969 có ghi nhận việc các chủ thể hiệp ước này áp dụng là đại diện của các quốc gia thành viên với những bên đã nhắc đến tại điều 23 công ước nói trên. Uỷ ban nhân quyền Châu Âu và toà án nhân quyền Châu Âu sẽ thụ lý đơn của các cá nhân tổ chức phi chính phủ, nhóm người nếu có dấu hiệu bị các quốc gia thành viên xâm phạm quyền và đã trải qua hết các thủ tục tố tụng hết trong phạm vi quốc gia đó.

Như vậy trong lĩnh vực quyền con người, cá nhân được xem là chủ thể của luật quốc tế. Tuy nhiên việc công nhận này mới chỉ diễn ra tại các nước tham gia vào công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và nền tảng tự do. Trên bình diện quốc tế thể nhân vẫn chưa được thừa nhận là chủ thể của luật quốc tế và luật nhân quyền quốc tế nói riêng.

4.1.2. Hiệu lực của luật quốc tế và quyền con người.

Hiệu lực của luật quốc tế và quyền con người được thể hiện qua hệ thống công ước quốc tế về quyền con người. Hiệu lực của các công ước quốc tế là không giống nhau đối với các quốc gia thành viên. Luật quốc tế đó vào đời sống xã hội theo hai cách. Luật quốc tế có thể có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ của các quốc gia tham gia công ước quốc tế. Ngoài ra các quốc gia thành viên cũng có thể chuyển hoá nội dung luật quốc tế thành các văn bản pháp luật trong nước. Hiện nay không có mô hình thống nhất cho việc áp dụng luật quốc tế. Ở những nước Châu Âu có tham gia công ước Châu Âu về quyền con người thì công ước này có giá trị hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ của các quốc gia thành viên. Điều này có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/11/2023