Một Số Quy Định Của Luật Nhân Quyền Quốc Tế Về Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Xét Xử Vụ Án Hình Sự

- Thứ nhất, về thủ tục tố tụng tại phiên tòa.

Quy định về thành phần xét xử tại Điều 185 BLTTHS chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể.

Quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa tại Điều 187 BLTTHS chính là việc bị cáo được thực hiện quyền tham gia phiên tòa

Quy định về sự có mặt của người bào chữa tại Điều 190 BLTTHS chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, cũng chính là bảo đảm pháp lý để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.

Các quy định về sự có mặt của những người tham gia phiên tòa và quy định về việc hoãn phiên tòa nhằm mục đích xét xử vụ án một cách công bằng, khách quan, đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

- Thứ hai, về thủ tục bắt đầu phiên tòa.

Thủ tục bắt đầu phiên tòa là hoạt động nhằm kiểm tra các điều kiện cần thiết cho việc xét xử, tạo tiền đề cho việc tiến hành các phần tiếp theo của phiên tòa. Thông qua hoạt động này, HĐXX sẽ xác định các điều kiện cần thiết để quyết định có thể tiếp tục xét xử hay phải hoãn phiên tòa

Thủ tục bắt đầu phiên tòa cũng có những quy định đảm bảo các quyền con người cho bị cáo. Đó là quy định việc chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo tại phiên tòa (Điều 201 BLTTHS). Đồng thời, HĐXX phải tiếp nhận các yêu cầu của bị cáo để xem xét khi bị cáo thực hiện các quyền của mình tại phiên tòa: quyền thay đổi người tiến hành tố tụng, quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, quyền đưa thêm tài liệu, vật chứng ra xem xét … (Điều 202, 205 BLTTHS).

- Thứ ba, về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.

Đây là bước quan trọng của quá trình xét xử tại phiên tòa. Đây là cuộc điều tra chính thức công khai được thực hiện qua việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng, xem xét mọi vấn đề để xác định có tội hay không, nếu có là tội gì cũng như nguyên nhân, động cơ, mục đích, hậu quả của tội phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Việc quy định Kiểm sát viên đọc bản Cáo trạng tại Điều 206 BLTTHS là một

quy định để cho bị cáo tự xác minh lại xem bản Cáo trạng mình đã nhận được có đúng nội dung như bản Cáo trạng mà Tòa án nhận được trong hồ sơ vụ án. Đây thực chất là việc kiểm tra lại quyền được nhận các văn bản tố tụng của bị cáo có được đảm bảo hay không. Mặt khác, việc quy định nếu Kiểm sát viên có ý kiến bổ sung thì phải trình bày luôn là để tạo điều kiện cho bị cáo hiểu rò quan điểm buộc tội của VKS để có thể lên kế hoạch bào chữa cho mình.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự - 7

Các quy định về xem xét vật chứng (Điều 212 BLTTHS) và xem xét tại chỗ (Điều 213 BLTTHS) tạo điều kiện để vụ án được đánh giá một cách khách quan và công khai.

- Thứ tư, về phần tranh luận tại phiên tòa.

Tranh luận tại phiên tòa là giai đoạn mà HĐXX nghe ý kiến đối đáp của đại diện VKS và những người tham gia tố tụng thể hiện quan điểm trong việc giải quyết vụ án và bảo vệ quyền lợi cho mình một cách toàn diện nhất. Đây được xem là cơ hội cuối cùng để những người tham gia tố tụng phân tích, lập luận để HĐXX chấp nhận ý kiến của mình. Việc tranh luận này được tiến hành như sau:

+ Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung Cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn. Nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội.

+ Bị cáo trình bày lời bào chữa (nếu bị cáo có người bào chữa thì người bào chữa sẽ bào chữa cho bị cáo trước, sau đó bị cáo có quyền bổ sung ý kiến)

+ Người bị hại và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của kiểm sát viên. Nếu những người tham gia tố tụng có ý kiến khác nhau thì họ có quyền tham gia phản bác lại ý kiến mà mình không đồng ý.

Trong phần tranh luận, chủ tọa phiên tòa chỉ được cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án chứ không được hạn chế thời gian tranh luận. Mặt khác, chủ tọa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

- Thứ năm, về phần nghị án và tuyên án.

Quy định về việc nghị án tại Điều 222 BLTTHS đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể”. Trong giai đoạn nghị án, nếu hai nguyên tắc này được bảo đảm thì sẽ cho ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2.2. Một số quy định của Luật Nhân quyền Quốc tế về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự

Luật Nhân quyền Quốc tế là một trong những ngành luật mới của hệ thống Luật Quốc tế, được chính thức hình thành và phát triển sau khi Liên Hợp Quốc ra đời (1945). Nó là hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý Quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Đối tượng điều chỉnh của nó là mối quan hệ giữa các nhà nước và tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Mặt khác nó cũng điều chỉnh mối quan hệ giữa các nhà nước và công dân liên quan đến việc bảo đảm thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người [25]

Luật Nhân quyền Quốc tế có một hệ thống các văn kiện làm cơ sở cho việc bảo đảm Quyền con người trong TTHS, đặc biệt là tại giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trước hết là Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người, 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) làm nòng cốt. Sau đó là các văn kiện quốc tế cơ bản về Quyền con người trong hoạt động tư pháp khác như: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, 1984; Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988; Các quy tắc hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979; Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án, 1985… Các văn kiện này được trình bày một cách khá ngắn gọn, súc tích (UDHR chỉ có 30 điều, ICCPR có 53 điều, Các quy tắc Bắc Kinh có 40 điều

…) nhưng đã có sự điều chỉnh hiệu quả trên thực tế.

Luật Nhân quyền Quốc tế không được áp dụng trực tiếp bởi Tòa án của các quốc gia thành viên mà được nội luật hóa vào hệ thống pháp luật quốc gia (tức là sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật quốc nội làm cho hài hòa với Luật Nhân quyền

Quốc tế). Tuy nhiên, vấn đề nội luật hóa không được hoàn toàn mà giữa Luật Nhân quyền Quốc tế và Pháp luật quốc gia luôn có “độ vênh” nhất định. Bên cạnh đó, khi so sánh một số Công ước cụ thể về quyền con người với pháp luật một quốc gia chưa là thành viên Công ước đó thì “độ vênh” lại càng cao. Các quy định của Luật Nhân quyền Quốc tế về bảo đảm quyền con người trong TTHS và Pháp luật hình sự Việt Nam cũng vậy.

Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của một số Công ước quốc tế như: ICCPR (tham gia vào năm 1982); CRC (tham gia vào 1990); Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại, 1968 (tham gia 1983) … Bên cạnh đó, xuất phát từ tình hình kinh tế, xã hội và chính trị, Việt Nam chưa thể tham gia các văn kiện như: Nghị định thư tùy chọn thứ nhất, thứ hai của ICCPR; Những quy tắc tối thiểu về đối xử với tù nhân, 1955; Những bảo đảm bảo vệ quyền của những người đối mặt với án tử hình, 1984… Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng trong tương lai, khi đến thời điểm thích hợp thì Việt Nam sẽ tham gia các Công ước quốc tế về quyền con người còn lại. Do đó, trong phần này, ngoài các Công ước mà Việt Nam đã tham gia thì chúng tôi vẫn đề cập đến một số quy định của các văn kiện khác mà Việt Nam chưa là thành viên.

2.2.1. Quy định về quyền của người bị cáo buộc hình sự

Quyền của người bị cáo buộc hình sự chính là sự cụ thể hóa quyền được sống, quyền được tự do, quyền không bị phân biệt đối xử … của người bị nghi ngờ phạm tội trong lĩnh vực TTHS.

Đó là các quyền sau đây:

- Quyền không bị tra tấn và quyền được đối xử nhân đạo (Điều 5 UDHR; Điều 7, 10 ICCPR; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục)

- Quyền tự do và an toàn cá nhân hay còn được gọi là quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện (Điều 9UDHR, Điều 9 ICCPR)

- Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật (Điều 1, 2, 6, 7, 8 UDHR; Điều 2, 3, 16, 26 ICCPR)

- Quyền được bảo vệ sự riêng tư hay còn gọi là quyền về đời tư (Điều 12 UDHR; Điều 17 ICCPR)

- Quyền về xét xử công bằng (Điều 10, 11UDHR; Điều 11, 14, 15 ICCPR).

Quyền này lần đầu tiên được đề cập tại Điều 10, 11 UDHR, sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các điều 11, 14, 15 ICCPR, trong đó thì Điều 14 ICCPR là có vai trò quan trọng. Điều 14 ICCPR đã cụ thể hóa các quyền bình đẳng trước Tòa án; quyền được suy đoán vô tội; quyền được áp dụng thủ tục đặc biệt của người chưa thành niên; quyền kháng cáo; quyền bồi thường oan sai…và một loạt các bảo đảm tố tụng tối thiểu khác dành cho người bị cáo buộc hình sự trong quá trình xét xử như:

+ Quyền được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình.

+ Quyền có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn.

+ Quyền được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý.

+ Quyền tham gia phiên tòa, quyền được tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa.

+ Quyền được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình; được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên tòa và thẩm vấn họ tại tòa với những điều kiện tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình.

+ Quyền được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên tòa.

+ Quyền không bị buộc đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội (hay còn gọi là quyền im lặng)

Như vậy, phải khẳng định rằng Luật nhân quyền quốc tế có nhiều điểm tiến bộ hơn so với pháp luật Việt Nam trong việc quy định quyền con người trong TTHS nói chung và quyền con người tại giai đoạn xét xử nói riêng. Luật nhân quyền quốc tế quy định cho người bị cáo buộc về hình sự một tập hợp các quyền tố tụng đầy đủ hơn. Điều dễ dàng nhận thấy nhất là pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận quyền được

xét xử nhanh chóng, quyền im lặng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cũng có ý kiến cho rằng các quyền đó đã được ghi nhận một cách gián tiếp qua một loạt quy định khác. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng việc pháp luật Việt Nam chưa nội luật hóa đầy đủ các quy định của Luật nhân quyền quốc tế là một hạn chế cần được khắc phục kịp thời. Các quy định trong các văn kiện quốc tế mà chúng ta tham gia hoặc công nhận cần được nhanh chóng nội luật hóa một cách hợp lý.

Mặt khác, so sánh các quy định mà chúng ta đã nội luật hóa thì có thể thấy rằng nội hàm của các quy định trong pháp luật quốc gia luôn hẹp hơn so với Luật nhân quyền quốc tế. Tuy nhiên, tình trạng này xuất phát từ thực tiễn riêng của mỗi quốc gia cho nên đây là điều có thể chấp nhận được. Tuy vậy, theo chúng tôi thì Nhà nước ta phải luôn nỗ lực để mở rộng nội hàm các quy định này để nó tương ứng với các quy định của Luật nhân quyền quốc tế. Có như vậy thì quyền con người mới được đảm bảo ở mức cao nhất.

Một đặc điểm cuối cùng có thể rút ra khi so sánh Luật nhân quyền quốc tế và hệ thống các quy định bảo đảm quyền con người trong pháp luật Việt Nam là: Các quy định của Luật nhân quyền quốc tế luôn mang tính nhân văn, vì con người vì Luật nhân quyền quốc tế ra đời nhằm mục đích xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Trong khi đó, các quy định nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam được hình thành nhằm đồng thời đạt được các mục đích khác nhau: vừa là để đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa xử phạt người phạm tội, vừa bảo vệ lợi ích nhà nước và cộng đồng, bảo vệ các giá trị xã hội, vừa nội luật hóa các vấn đề liên quan đã tham gia trong các Công ước quốc tế… Do đó, các quy định bảo đảm quyền con người trong pháp luật Việt Nam có hạn chế hơn, tính “nhân quyền” sẽ bị giảm bớt đi một phần là điều tất yếu.

2.2.2. Cơ chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Luật nhân quyền quốc tế

Bên cạnh việc ghi nhận các quyền con người trong pháp luật thì cần phải có các biện pháp để bảo đảm thực hiện các quyền trên thực tế. Do các quyền con người

rất phong phú và vi phạm quyền cũng rất đa dạng nên việc bảo vệ và thúc đẩy quyền đòi hỏi có sự tham gia của nhiều dạng chủ thể (cá nhân, cộng đồng, tổ chức phi chính phủ, tổ chức quốc tế, cơ quan nhà nước…) thông qua nhiều biện pháp: phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức, theo dòi, giám sát, xử lý vi phạm… [25, 157]

Luật nhân quyền quốc tế có ba cơ chế để thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người nói chung là là: Cơ chế quốc tế; Cơ chế quốc gia, Cơ chế khu vực. Việc bảo vệ các quyền con người bị xâm hại trong hoạt động xét xử hình sự cũng thực hiện theo các cơ chế đó.

- Cơ chế nhân quyền quốc tế (Cơ chế nhân quyền Liên Hợp Quốc):

Cơ chế này chính là bộ máy các cơ quan (Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Hội đồng quản thác, Ecosoc, Ban Thư ký, ICJ) và các quy tắc, thủ tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trong hệ thống Liên Hợp Quốc. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – ICJ).

Đây là cơ quan tài phán chính của LHQ. Trong vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, cơ quan này có chức năng xem xét, xử lý các tranh chấp về quyền con người. Trên thực tế đã có một số vụ tranh chấp và các vấn đề phức tạp về quyền con người được đưa ra trước ICJ như: quyền có nơi cư trú, quyền của những người ngoại kiểu, quyền của trẻ em, vấn đề duy trì chế độ quản thác với Tây Nam Phi, vấn đề bắt giữ các nhà ngoại giao và nhân viên lãnh sự quán Mỹ ở I ran, vấn đề tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Luật nhân đạo quốc tế. Ngoài ra, ICJ còn có thể tư vấn cho Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an về các vấn đề mang tính pháp lý về quyền con người như: vấn đề bảo lưu với Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng, vị thế của báo cáo viên đặc biệt…

- Cơ chế nhân quyền khu vực

Hiện tại có ¾ châu lục đã thiết lập được cơ chế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người:

+ Cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Châu Âu.

+ Cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở châu Mỹ.

+ Cơ chế thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở châu Phi.

Cả ba khu vực này đều ghi nhận quyền con người và cơ chế bảo đảm, giám sát vào hệ thống các văn kiện về quyền con người trong đó có các văn kiện nòng cốt là Công ước nhân quyền châu Âu, Công ước nhân quyền châu Mỹ, Công ước nhân quyền châu Phi. Cơ chế khu vực được đảm bảo bằng hoạt động của các cơ quan: Ủy ban quyền con người và quyền các dân tộc châu Phi; Ủy ban quyền con người châu Mỹ; Ủy ban các Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu. Ngoài ra, các khu vực đều thành lập các Tòa án quyền con người để xét xử các khiếu kiện về quyền con người (Tòa án quyền con người Châu Âu, Tòa án quyền con người Châu Mỹ, Tòa án quyền con người Châu Phi)

So với cơ chế của LHQ thì cơ chế quyền con người khu vực có ưu điểm là dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập, sửa đổi, bổ sung và thực hiện, do các quốc gia trong khu vực thường có nhiều điểm chung về kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử. Mặt khác, cơ chế khu vực cũng dễ tiếp cận hơn so với cơ chế toàn cầu của Liên Hợp Quốc. Ở một mức độ nhất định, một số cơ chế khu vực còn tỏ ra chặt chẽ, hiệu quả hơn so với cơ chế của Liên Hợp Quốc.

- Cơ chế nhân quyền quốc gia

Việc thành lập các cơ quan độc lập hoặc bán độc lập với bộ máy nhà nước để tăng cường hiệu quả của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của mỗi quốc gia không giống nhau, có thể khái quát theo các dạng như sau:

+ Ủy ban quyền con người quốc gia (Natinonal Commissions of Human Rights): Mô hình này bao gồm nhiều thành viên đại diện cho nhiều nhóm xã hội,

nghề nghiệp. Các Ủy ban quyền con người quốc gia thông thường thuộc nhánh hành pháp, do Chính phủ thành lập nhưng có tính độc lập tương đối với các cơ quan hành pháp khác. Chức năng của nó là: bảo vệ các cá nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền con người; tiếp nhận, điều tra và giải quyết khiếu nại về các vi phạm nhân quyền theo pháp luật quốc gia; nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền con người của chính; giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ pháp luật về quyền con người; giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về quyền con người.

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí