nghiệp. Để giảm bớt sự phụ thuộc vào nợ phải trả, các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam phải nâng cao năng lực tự tài trợ của chính mình. Tuy nhiên, ngoại trừ những DN có vị thế thị trường mạnh, hầu hết các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam đang đối mặt với sự giảm sút hoạt động kinh doanh do ngành đang bước vào giai đoạn tiền suy thoái. Duy trì được hoạt động kinh doanh ở mức độ hiện tại đã đòi hỏi nỗ lực rất lớn của các nhà quản trị.
2.3.2 Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
2.3.2.1 Những hạn chế còn tồn tại trong CCNV của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam
Thứ nhất, cơ cấu nguồn vốn hiện tại của hầu hết các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam tiềm ẩn rủi ro phá sản cao và chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là ở nhóm DN xi măng. Tình trạng phân hoá rõ nét đang xảy ra ở nhóm hệ số nợ cao và hệ số nợ thấp. Những DN sử dụng nhiều nợ vay có hiệu quả sinh lời của tài sản thấp; từ đó làm giảm sút TSSL của chủ sở hữu. Trái lại, những doanh nghiệp có hiệu quả sinh lời của tài sản cao đang duy trì một mức nợ vay thấp nên không tận dụng triệt để được mức độ khuếch đại TSSL cho các CSH của ĐBTC. Ngoài ra, mô hình tài trợ của nhiều doanh nghiệp vi phạm nguyên tắc cân bằng tài chính, nguồn vốn thường xuyên mỏng, sụt giảm trong giai đoạn nghiên cứu do thiếu hụt nguồn thường xuyên và đầu tư dàn trải vào TSCĐ trước đó.
Thứ hai, hệ số nợ của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam có xu hướng điều chỉnh giảm, tuy nhiên mức độ sử dụng nợ phải trả và đặc biệt là nợ vay của các DN NY trong ngành VLXD còn cao. Để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các DN NY trong ngành VLXD vẫn chủ yếu sử dụng nợ vay. Nguyên nhân xuất phát từ tính thuận tiện và sự phổ biến của hoạt động tín dụng so với các hình thức huy động vốn khác ở Việt Nam. Tỷ trọng nợ phải trả bình quân của các DN NY trong ngành VLXD năm 2020 ở mức 54,95% trong tổng nguồn vốn, và trong nợ phải trả thì có đến 72,75% là nợ vay. Việc phụ thuộc vào nợ phải trả có thể dẫn đến một số ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể với những phân tích trong mục 2.2 trong giai đoạn 2009-2020, cho thấy:
Việc sử dụng nợ phải trả và đặc biệt là nợ vay ngắn hạn ở mức độ lớn dẫn đến nhiều rủi ro cho DN, từ đó khiến cho chi phí sử dụng vốn bình quân của nhóm DN gạch- đá và DN xi măng có hệ số nợ cao thường lớn hơn so với các DN có hệ số nợ thấp. Đồng thời, làm cho áp lực thanh toán ngắn hạn tăng lên, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thanh toán. Điều này xảy ra đối với cả 3 nhóm DN thép, xi măng và gạch-đá. Bên cạnh đó, không ít các DN NY trong ngành VLXD với hệ số nợ cao đã gặp khó khăn trong việc đảm bảo đảm bảo cân bằng tài chính. Điển hình như HSG, NKG, BTS, HT1 với NWC thường xuyên âm qua các năm.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy, hệ số nợ có mối quan hệ ngược chiều với ROE, có thể dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DN NY trong ngành VLXD .
Thứ ba, các DN NY trong ngành VLXD phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn ngắn hạn. Tỷ trọng nợ ngắn hạn của các DN NY trong ngành VLXD chiếm trên 76% trong tổng nợ phải trả bình quân. Sự thiếu hụt nguồn tài trợ dài hạn là một trở ngại khi các DN muốn huy động vốn cho các mục tiêu chiến lược dài hạn.
Thứ tư, các DN NY trong ngành VLXD có nguồn vốn nội sinh thấp, năng lực tự tài trợ giảm dần qua các năm và đặc biệt là trong giai đoạn 2009-2014. Sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài làm giảm tính chủ động cũng như khả năng ứng phó trước sự biến đổi của môi trường kinh doanh.
Thứ năm, ngoại trừ một số doanh nghiệp duy trì được vị thế trên TTCK, hệ số nợ cao và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh thấp dẫn đến cổ phiếu của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam nhận được sự đánh giá thấp của nhà đầu tư. Nhiều DN ngành xi măng và gạch - đá có thị giá cổ phiếu thấp hơn mệnh giá cổ phần. Đồng thời, việc ước lượng chi phí sử dụng vốn của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam cho thấy nhiều DN có hệ số beta âm. Điều này cho thấy chi phí huy động vốn cổ phần thường mới của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam ở mức cao và việc tăng vốn cổ phần thường để phục vụ cho mục tiêu đầu tư dài hạn của các DN này sẽ gặp nhiều khó khăn.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Mô Hình Hồi Quy Trên Toàn Mẫu Nghiên Cứu
- Kết Quả Mô Hình Điều Chỉnh Hệ Số Nợ Vay Dạng Tĩnh
- Tác Động Của Hệ Số Nợ Ngắn Hạn Lên Roe &tobin’S Q – Hồi Quy Gls
- Mục Tiêu Và Định Hướng Phát Triển Ngành Vlxd Ở Việt Nam
- Nguyên Tắc Tương Thích Giữa Huy Động Và Sử Dụng Vốn
- Lựa Chọn Và Thực Hiện Chính Sách Cổ Tức Phù Hợp
Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
a. Những nguyên nhân bên trong
Thứ nhất, chất lượng quản trị doanh nghiệp của các DN NY trong ngành VLXD chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quản trị hiện đại, thiếu một chiến lược dài hạn và quản trị rủi ro chưa được chú trọng. Quản trị doanh nghiệp chưa đạt chuẩn còn khiến cho việc bất cân xứng thông tin trên thị trường tài chính trở nên trầm trọng hơn và nhà đầu tư thiếu niềm tin vào các DN.
Hiện nay, ở không ít DN Việt Nam nói chung, doanh nghiệp VLXD nói riêng không có cán bộ chuyên trách mảng tài chính của doanh nghiệp; chức danh Giám đốc tài chính (CFO) chỉ xuất hiện trong bộ máy quản lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hay các doanh nghiệp có quy mô kinh doanh lớn. Việc thiếu bộ phận chuyên trách tiến hành phân tích dự báo tài chính, thu xếp các nguồn vốn ngắn- trung và dài hạn đã dẫn doanh nghiệp tới chỗ khá bị động về quản lý tài chính và quản trị dòng tiền; hầu hết các DN NY trong ngành VLXD chưa xây dựng được chiến lược tài chính làm cơ sở cho việc đưa ra các kế hoạch tài chính ngắn hạn, trung và dài hạn, nhất là trong việc huy động vốn cho hoạt động kinh doanh.
Đồng thời, ở một số doanh nghiệp chưa có sự phân tách rõ ràng giữa chức năng
sở hữu và chức năng quản lý. Điều đó, đôi khi vì sẽ làm giảm hiệu quả quản trị vì sự giảm sút mức độ độc lập của HĐQT.
Thứ hai, các DN NY trong ngành VLXD còn phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng trong tài trợ nợ vay. Hệ thống ngân hàng hiện nay là nguồn cung cấp vốn vay chính cho các DN NY trong ngành VLXD, dù là dưới hình thức hợp đồng vay vốn hay phát hành trái phiếu. Sự phụ thuộc này đem đến rủi ro lớn cho ngành nếu hệ thống ngân hàng gặp khó khăn và lãi suất cho vay biến động. Bên cạnh đó, các DN NY trong ngành VLXD có quy mô nhỏ và vừa, việc tiếp cận tín dụng ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn và phải dựa nhiều vào các nguồn vốn tín dụng phi chính thức có lãi suất cao.
Thứ ba, do năng lực tiếp cận và huy động nguồn vốn dài hạn yếu. Ngoại trừ một số DN với tiềm năng phát triển đã theo đuổi chiến lược phát triển dài hạn, còn lại phần lớn các DN NY trong ngành VLXD đang thực hiện chiến lược giữ ổn định quy mô kinh doanh thì nhu cầu đầu tư là không lớn. Do đó việc vay vốn dài hạn từ các NH thương mại không dễ dàng. Đồng thời, phần lớn các DN NY trong ngành VLXD cũng khó huy động vốn từ TTCK do cổ phiếu còn kém hấp dẫn.
Thứ tư, kết quả kinh doanh và hiệu quả khai thác sử dụng tài sản của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam trong giai đoạn 2009-2020 còn thấp nên việc sử dụng đòn bẩy tài chính không hiệu quả, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng gia tăng nguồn vốn nội sinh. Kết quả này đến từ nhiều nguyên nhân, bao gồm: Sự biến động của nền kinh tế, thị trường tiêu thụ, công nghệ sử dụng và nguồn nguyên vật liệu đầu vào.
-Thứ năm, nhiều doanh nghiệp NY trong ngành VLXD chậm tiến hành tái cơ cấu hoạt động kinh doanh làm cơ sở cho việc thay đổi cơ cấu cấu nguồn vốn doanh nghiệp cho phù hợp. Trong nhiều năm qua, các DN NY trong ngành VLXD vẫn phải đối mặt với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh chưa hiệu quả. Cụ thể: Còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu đầu vào (các doanh nghiệp sản xuất thép), thiếu quy hoạch về sản xuất dẫn đến cung vượt cầu (doanh nghiệp sản xuất xi măng), năng lực sản xuất chưa cao, thiếu sự tích hợp (doanh nghiệp sản xuất gạch - đá) thị trường đầu ra gặp sự cạnh tranh khốc liệt (đối với tất cả doanh nghiệp VLXD). Nếu các doanh nghiệp VLXD vẫn không có những bước đi cụ thể để giải quyết những vấn đề trên thì khó có cơ sở để thay đổi cơ cấu cấu nguồn vốn doanh nghiệp cho phù hợp.
b. Những nguyên nhân bên ngoài
Thứ nhất, ngành VLXD là ngành có rủi ro kinh doanh cao. Các DN NY trong ngành VLXD cần đầu tư một lượng vốn lớn vào tài sản cố định, khiến chi phí cố định thường ở mức cao. Trong trường hợp gặp khó khăn về tiêu thụ có thể dẫn đến khả năng không bù đắp được chi phí cố định. Ngoài ra, chi phí biến đổi về: than, điện, xăng dầu…thường xuyên biến động, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh của các DN.
Bên cạnh đó, thị trường đầu ra của các DN NY trong ngành VLXD phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển của ngành xây dựng nói riêng và sự phát triển của kinh tế vĩ mô nói chung. Đồng thời, các doanh nghiệp VXLD của Việt Nam còn chịu sức ép cạnh tranh không hề nhỏ đến từ Trung Quốc và Thái Lan – những nước có lợi thế đến từ công nghệ, chất lượng cũng như giá thành sản phẩm. Những nhân tố trên dẫn đến những biến động về kết quả hoạt động kinh doanh của các DN NY trong ngành VLXD là rất lớn.
Thứ hai, xuất phát từ lịch sử hình thành và phát triển của các DN NY trong ngành VLXD tại Việt Nam. Với đặc thù là ngành công nghiệp nặng cơ sở của mỗi quốc gia nền rất nhiều các DN NY trong ngành VLXD có sở hữu Nhà nước. Chính vì vậy, một bộ phận doanh nghiệp VLXD đã có có những lợi thế về khả năng tiếp cận nguồn vốn vay. Do đó, nguồn vốn của các DN NY trong ngành VLXD phụ thuộc vào nợ phải trả và đặc biệt là vay nợ ngắn hạn nhiều hơn.
Thứ ba, những đặc điểm của TTCK Việt Nam làm cho việc huy động VCSH của các DN còn gặp khó khăn. TTCK Việt Nam còn khá non trẻ, chưa phát triển ổn định, thiếu bền vững và còn nhiều hạn chế là yếu tố ảnh hưởng mạnh đến sự khả năng huy động vốn và việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Thị trường giao dịch cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản, đặc biệt khi thị trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, các công cụ huy động vốn trên TTCK còn khá ít, đặc biệt là những công cụ chứng khoán phái sinh. Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có nghiệp vụ bán khống, vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn tất giao dịch), tính minh bạch của thị trường chưa đáp ứng nhu cầu của công chúng đầu tư.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CẤU NGUỒN VỐN CHO CÁC DNNY TRONG NGÀNH VẬT LIỆU XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM
3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội và định hướng phát triển lĩnh vực vật liệu xây dựng tại Việt Nam giai đoạn 2020-2030
3.1.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô
3.1.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Năm 2020, Đại dịch COVID-19 bùng phát và lan rộng khắp toàn cầu đã khiến kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên, vào đầu năm 2021, sau khi triển khai vắc xin hiệu quả và các nền kinh tế đối phó tốt hơn với dịch COVID-19, triển vọng kinh tế toàn cầu đã được cải thiện rõ rệt trong những tháng gần đây. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế thế giới xuất hiện một số điểm nổi bật ảnh hưởng đến ngành VLXD có thể kể đến như:
Kinh tế toàn cầu tiếp tục đà phục hồi
Sau khi suy thoái trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, Kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ từng bước được khi niềm tin, tiêu dùng và thương mại dần được cải thiện nhờ nỗ lực tiêm chủng trên toàn thế giới. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nền kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tăng 5,5% vào năm 2021 và 4,2% vào năm 2022. Tuy nhiên, sự phục hồi được dự báo sẽ khác nhau đáng kể giữa các quốc gia. Các biện pháp ngăn chặn dịch COVID-19 nghiêm ngặt sẽ kìm hãm tăng trưởng ở một số quốc gia và ngành dịch vụ trong thời gian tới, trong khi những quốc gia khác sẽ được hưởng lợi từ các chính sách y tế công cộng hiệu quả, triển khai vắc xin nhanh hơn và có các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ.
Trong bối cảnh trên, ngành VLXD toàn cầu dự báo sẽ phục hồi cùng với một loạt chính sách kích cầu hạ tầng. Đặc biệt là ở thị trường Trung Quốc, khi mà Chính Phủ Trung Quốc đã liên tục bơm ra các gói kích thích kinh tế với quy mô lớn và tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng khiến nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng như thép, xi măng tăng mạnh. Điều đó đã tạo ra sức ảnh hưởng tích cực đến khả năng tiêu thụ VLXD ở các nước xung quanh, trong đó có Việt Nam. Như đối với sản xuất thép thì giá trị xuất khẩu thép của Việt Nam luỹ kế 11 tháng đầu năm 2020 đã đạt 8,91 triệu tấn tương đương 4,7 tỷ USD, tăng gần 50% so với cùng kỳ. Trong đó thì xuất khẩu thép sang Trung Quốc là điểm nhấn khi tăng cả về lượng và giá trị xuất khẩu. Trong 11 tháng đầu năm 2020, lượng thép xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 3,25 triệu tấn tương đương 1,35 tỷ USD, chiếm 36,53% tỷ trọng xuất khẩu thép của Việt Nam. Còn đối với sản xuất xi măng, tổng sản lượng xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020 đã tăng 6% so với cùng kỳ, trong đó sản lượng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng
35% so với cùng kỳ, và chiếm 52% tổng sản lượng xuất khẩu. Như vậy, triển vọng xuất khẩu đối với ngành VLXD Việt Nam là khả quan.
Hoạt động thương mại toàn cầu có dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên chuỗi giá trị toàn cầu vẫn tiềm ẩn nguy cơ bị đứt gãy
Với những tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, và đặc biệt là đại dịch COVID 19 đã làm cho các hoạt động thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại. Việc thực hiện các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới đã dẫn tới gián đoạn trong sản xuất và vận chuyển các đầu vào trung gian trong sản xuất. Sự đứt gãy trong nguồn cung đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp. Cụ thể các doanh nghiệp VLXD sẽ gặp khó khăn hơn trong việc xuất khẩu hàng hoá khi mà nguồn cung container thiếu hụt, giá cả vận chuyển tăng cao.
Giá cả trên thị trường hàng hóa có xu hướng phục hồi
Bên cạnh yếu tố về cuộc chiến tranh thương mại, sự phục hồi kinh tế thế giới sau năm 2020 đã khiến cho toàn bộ các nguyên liệu đều tăng giá một mức đáng kinh ngạc. Ngoài ra, các yếu tố về thiếu hụt nguồn cung container và việc Trung Quốc thúc đẩy đầu tư công đã cùng nhau tạo ra mức tăng vượt ngoài dự báo của mọi loại hàng hóa. Theo chỉ số giao dịch hàng hóa toàn cầu, mức điểm giao dịch đã tăng 70% trong vòng một năm lên mức 470 điểm vào tháng 5/2021. Đây là mức điểm số cao nhất trong giai đoạn 2011 – 2021.
Có thể thấy rằng thế giới đang bước vào một chu kỳ tăng giá của hàng hoá, chủ yếu đến từ việc năng lực sản xuất không kịp mở rộng theo nhu cầu do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Ngoài ra, yếu tố dịch bệnh cũng ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng, giá vận tải tiếp tục leo cao sẽ tiếp tục đẩy giá hàng hóa tăng trong tương lai.
Xu hướng trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến ngành VLXD khi mà các chi phí nguyên vật liệu đầu vào có khả năng tăng mạnh. Như đối với các DN sản xuất thép, kể từ cuối tháng 11/2020, giá các loại nguyên liệu sản xuất thép là quặng sắt và thép phế liệu đã tăng cao bất thường và thiết lập mốc giá mới trong 3 năm trở lại đây. Cụ thể: Giá quặng sắt giao ngày 06/01/2021 là 166,9 – 167,4 USD/tấn tăng khoảng 30 USD/tấn tương đương 17%-18% so với đầu tháng 12/2020. Giá thép phế ngày 06/01//2021 ở mức 475 USD/tấn, tăng 95 USD/tấn so với đầu tháng 12/2020. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của các DN NY trong ngành VLXD đặc biệt là các DN phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu như các DN thép.
Bên cạnh đó việc giá nguyên vật liệu đầu vào tăng, các DN NY trong ngành VLXD buộc phải tăng giá bán. Tuy nhiên, việc tăng giá bán cũng phần nào làm cho khả năng tiêu thụ sản phẩm của các DN NY trong ngành VLXD bị ảnh hưởng. Thực tế ở Việt Nam đã
có nhiều DN quyết định tạm hoãn hoặc giảm tiến độ thi công để chờ quyết định bù trừ giá vật tư khi mà giá VLXD ngày càng tăng.
Dòng vốn vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi mất dần động lực
Sau khi phục hồi nhanh chóng vào cuối năm ngoái, dòng vốn đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi đã mất dần động lực từ đầu năm 2021 do tâm lý ngại rủi ro của các nhà đầu tư, đặc biệt vào các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi ở Đông Á và Thái Bình Dương. Đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, trừ Trung Quốc, giảm mạnh trong năm 2020. Suy giảm mạnh nhất ở châu Mỹ La- tinh, Ca-ri-bê và Nam Á. Khu vực Đông Á, bao gồm Trung Quốc và Việt Nam, có mức giảm đầu tư nhỏ nhất trong năm 2020 do được hỗ trợ bởi các chương trình kích thích tài khóa lớn. Ngay cả khi đại dịch dự kiến sẽ dần kết thúc vào năm 2021, mức phục hồi ngắn hạn trong đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển được dự đoán đạt 5,7%, thấp hơn nhiều so với con số 10,8% của năm 2010 sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đối với hầu hết các nền kinh tế đang phát triển, tăng trưởng đầu tư trong vài năm tới sẽ duy trì bằng hoặc thấp hơn tốc độ trung bình của những năm 2010. Điều này cũng sẽ tạo thành một trở ngại cho sự phát triển của ngành VLXD khi mà dòng tiền đầu tư suy giảm, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng cũng bị ảnh hưởng theo.
3.1.1.2. Tình hình kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam trong nửa cuối năm 2020 đã cho thấy những tín hiệu phục hồi sau dịch Covid-19. Sự ổn định vĩ mô đã được chú trọng và duy trì xuyên suốt trong năm 2020 mặc dù xuất hiện những áp lực về lạm phát và điều hành tỷ giá. Bước sang nửa đầu năm 2021, cùng với kỳ vọng dịch bệnh sẽ tiếp tục được kiểm soát tốt và lộ trình phân phối vaccine trở nên rõ ràng hơn, tình hình kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu tích cực. Trong đó, có ba động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế Việt Nam là sự phục hồi của sản xuất và tiêu dùng trong nước, hoạt động xuất khẩu và làn sóng đầu tư FDI. Cụ thể:
Hoạt động sản xuất trong nước từng bước phục hồi.
Về số lượng doanh nghiệp: Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 93,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2020; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 14,1 tỷ đồng, tăng 24,2% Trong đó số doanh nghiệp thành lập mới đạt 67,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ 2020 và tăng 34,3% về vốn đăng ký. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 26,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 3,9% so với cùng kỳ 2020.
Về dòng vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Dòng vốn huy động của các doanh nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi. Từ việc thực hiện các đợt giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp đã dần tăng trở lại.
Tính đến tháng 6/2021, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,47%, tăng 2,45% so với cùng kỳ năm 2020.
Bên cạnh đó, với sự tăng trưởng mạnh trong nửa đầu năm 2021 thì thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh huy động vốn lớn đáng kể của các doanh nghiệp. Hàng loạt các doanh nghiệp đã thực hiện phát hành cổ phần để huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính đến hết tháng 5/2021, tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán ước tính đạt 116,4 nghìn tỷ đồng, tăng 68% so với cùng kỳ năm trước.
- Về tổng sản phẩm trong nước: Trong 6 tháng đầu năm 2021, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 5,64%. Cụ thể: Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,36% (đóng góp 59,05% vào mức tăng chung), tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế; Khu vực dịch vụ tăng 3,96% (đóng góp 32,78%); Khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản tăng 3,82% (đóng góp 8,17%).
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá được duy trì ổn định:
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ước tính đạt 157,63 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 40,89 tỷ USD, tăng 16,8%, chiếm 25,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 116,74 tỷ USD, tăng 33%, chiếm 74,1%; có 25 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 88,9% tổng kim ngạch xuất khẩu ( trong đó có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 58%).
Dòng vốn đầu tư vào nền kinh tế có sự cải thiện:
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2021 theo giá hiện hành ước đạt 1.169,7 nghìn tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều mức tăng 3% của năm 2020. Mức tăng này phản ánh kết quả của các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp, cũng như xu thế đón đầu dòng vốn FDI đang chuyển dịch vào Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 được kiểm soát.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 295,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,3% tổng vốn và tăng 7,3%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 660,1 nghìn tỷ đồng, bằng 56,4% và tăng 7,4%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 214,4 nghìn tỷ đồng, bằng 18,3% và tăng 6,7%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến ngày 20/6/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 15,27 tỷ USD, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 804 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt gần 9,55 tỷ USD, giảm 43,3% về số dự án và tăng 13,2% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 460 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 4,12 tỷ