Tác Động Của Hệ Số Nợ Ngắn Hạn Lên Roe &tobin’S Q – Hồi Quy Gls

Bảng 2.27. Tác động của hệ số nợ ngắn hạn lên ROE &Tobin’s Q – Hồi quy GLS


Tên biến

Toàn mẫu ROE

DN thép ROE

Giai đoạn L1 ROE

Giai đoạn L2 ROE

Toàn mẫu Tobin’s Q

SDebt

-.4025964***

-.3695103

-1.248903***

-.3849026*

-.7069679

SDebt^2

-1.197835***

-1.875487*

3.438976*

-2.841353**

-6.694935***

Turnover

.0149374*

.0062075

.0176603

-.0388811*

-.300622

NWC

.0000124*

-.0000126

-.0000344

.0000502

.0002239

Size

-.0070568

.0037414

-.010917

-.0660496***

.0388757

Orisk

-.0006364***

-.0007755***

-.0013225*

-.0004358***

.0007208

Gross_P_M

-.3382064***

-.0918814

.3702931

-.1710455

-1.888018***

CFO

.0000141*

.0000248***

.0000249*

.0000942

.0008318

Period

.0097184

.2987485



-.1057872

_cons

.3731191***

-.3695103*

.7965739**

.77812***

1.647069

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

Cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp niêm yết trong ngành vật liệu xây dựng ở Việt Nam - 21

Ghi chú: (***), (**), (*) mức ý nghĩa thống kê p-value lần lượt 1%, 5%, 10%

Tác động của hệ số nợ dài hạn (LDebt) lên ROE và Tobin’s Q

Bảng 2.28. Tác động của nợ dài hạn lên ROE – Hồi quy GLS


Tên biến

Toàn mẫu

Toàn mẫu

DN thép

DN xi-măng

DN gạch -đá

Giai đoạn L1

LDebt

.1540068

.0434757

.2402729***

.2843187**

-.49536**

-.2910768

LDebt^2


-.5607325**

-8.165026**

-.8269778***

7.248106**

-12.85934***

Turnover

.0003514

.0018365

.0357042

.0194861**

.0890497**

.0357794

NWC

6.17e-06

4.97e-06

-3.22e-06

9.07e-06

.0001082

-.0000306

Size

-.010514

-.0113839

-.0052524

-.0135079**

.0161705

-.0053433

Orisk

-.0005906***

-.0006262***

-.0007204

-.0004061**

.0001134

-.0015558**

Gross_P_M

-.3721011***

-.3720697***

.0896995

-.4876724**

-.6720614***

.5325725

CFO

.0000233***

.0000247***

.0000273

.0000267

.0000476

.0000237**

Period

.0081816

.0149005

.025852

.0155831

.0076829


LDebt*Period

-.3405225**






_cons

.2081036**

.225278**

.0941551

.1628744

.0216923

.1761334

Ghi chú: (***), (**), (*) mức ý nghĩa thống kê p-value lần lượt 1%, 5%, 10%

Hệ số nợ dài hạn cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê lên ROE; đồng thời tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa hệ số nợ dài hạn với ROE ở toàn mẫu cũng như tất cả các phân ngành. Tác động của hệ số nợ dài hạn đến ROE thay đổi theo chu kỳ ngành. Ở giai đoạn phát triển, hệ số nợ dài hạn làm giảm ROE. Xem xét các giai đoạn của vòng đời DN, chỉ có giai đoạn L1 cho thấy tác động có ý nghĩa thống kê của hệ

số nợ dài hạn đến ROE. Tác động của hệ số nợ dài hạn đến ROE thay đổi theo chu kỳ ngành

Tóm lại, việc sử dụng nợ vay trong các DNNY ngành VLXD làm giảm tỷ suất sinh lời của VCSH. Nói cách khác, chi phí sử dụng nợ vay cao làm sụt giảm mức sinh lời của các chủ sở hữu. Tác động của nợ vay lên ROE có sự khác biệt theo từng phân ngành và từng giai đoạn của vòng đời DN. Đối với các DN gạch -đá, nợ vay (Lev) có tác động thuận chiều đến ROE; trái lại, DN ngành thép và ngành xi măng cho thấy tác động ngược chiều. Những DN ở giai đoạn phát triển, nợ ngắn hạn có tác động thuận chiều đến ROE. Điều này cho thấy những doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao phụ thuộc nhiều vào nợ ngắn hạn. Trái lại, những DN ở giai đoạn tiền suy thoái, càng sử dụng nhiều nợ ngắn hạn, ROE càng sụt giảm. Ngoài ra, thị trường phản ứng tiêu cực với những doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ ngắn hạn. DN càng sử dụng nhiều nợ ngắn hạn càng có Tobin’s Q thấp. Nói cách khác, hệ số nợ ngắn hạn cao cung cấp tín hiệu tiêu cực về DN đến các nhà đầu tư.

2.2.4. Quyết định cơ cấu nguồn vốn của các nhà quản trị tài chính tại các DN NY trong ngành VLXD

Tại phần này, luận án làm rõ quyết định CCNV của các nhà quản trị tài chính tại các DN vật liệu xây dựng. Bảng hỏi điều tra gồm 15 câu hỏi (gồm 10 câu hỏi về hoạch định CCNV và 5 câu hỏi về kiến thức liên quan đến CCNV) được gửi đến các giám đốc tài chính/ kế toán trưởng hoặc trưởng phòng tài chính kế toán của các DN ngành VLXD, bao gồm cả DN niêm yết và DN không niêm yết từ tháng 8/2021 đến tháng 10/2021. Bảng hỏi được xây dựng trên cơ sở tham khảo nghiên cứu của Graham và Harvey (2001); Noulas và Genimakis (2014). Kết quả thu về được 06 phiếu trả lời hợp lệ. Tác giả luận án cũng tiến hành phỏng vấn chuyên gia tài chính để luận giải rõ hơn những kết quả của mô hình định lượng. Trong số 06 phiếu trả lời có 02 phiếu của DNNY ngành VLXD là CTCP Hoà Phát và CTCP xi măng Bỉm Sơn. Các DN còn lại đều thuộc ngành VLXD song chưa niêm yết trên TTCK. Với sự hạn chế về quy mô của mẫu nghiên cứu, nội dung phần này chỉ đóng vai trò nghiên cứu khám phá, làm sáng tỏ thêm những kết quả định lượng.

2.2.4.1. Cách thức huy động vốn của các nhà quản trị tài chính


Câu hỏi: Để huy động vốn cho một dự án đầu tư, công ty của ông (bà) sẽ:

a. Tuân theo trình tự huy động vốn trong đó nguồn vốn có lợi nhất được sử dụng đầu tiên.

b. Duy trì cơ cấu nguồn vốn mục tiêu bằng cách sử dụng một tỷ lệ gần cố định cho một vài nguồn vốn dài hạn.

c. Sử dụng những phương án huy động vốn khác nhau tuỳ theo dự án và hoàn cảnh thực tế của công ty.

Chỉ duy nhất CTCP xi măng Bỉm Sơn lựa chọn phương án b, tức là duy trì CCNV mục tiêu. CTCP Hoà Phát lựa chọn PA a, tuân theo trình tự huy động vốn với ưu tiên dành cho nguồn vốn có lợi nhất. Các DNVLXD chưa niêm yết có 03 DN chọn a và 01 DN chọn c. Phương án a được nhiều DN lựa chọn nhất, tiếp đến là phương án c. Kết quả này cho thấy trong thực tiễn, các nhà quản trị tài chính có xu hướng tuân theo lý thuyết trật tự phân hạng khi hoạch định CCNV. Lý do lựa chọn PA b của CTCP xi măng Bỉm Sơn được lý giải là do hoạt động của công ty đã đi vào giai đoạn ổn định, quy trình lập kế hoạch tài chính được xây dựng và triển khai thực hiện trong nhiều năm. Doanh nghiệp không phát sinh những nhu cầu đầu tư đổi mới lớn nên chỉ duy trì mức nợ vay mục tiêu đã đặt ra trong kế hoạch tài chính.

Về trật tự ưu tiên các nguồn vốn huy động, phần lớn các DN lựa chọn ưu tiên số 1 cho nguồn lợi nhuận để lại và lựa chọn ưu tiên cuối cùng là dành cho phát hành cổ phần thường mới. Một kết quả đối chứng rất thú vị giữa CTCP Hoà Phát và CTCP xi măng Bỉm Sơn về trật tự huy động vốn: CTCP xi măng Bỉm Sơn thiết lập CCNV mục tiêu, xác định hệ số nợ dài hạn cố định và lựa chọn nợ vay (bao gồm cả vay ngân hàng và phát hành trái phiếu) là nguồn vốn ưu tiên, sau đó đến nguồn vốn chủ sở hữu (lợi nhuận để lại, đến phát hành cổ phiếu thường cho CĐ hiện hữu, và huy động vốn từ chào bán cổ phiếu mới). CTCP Hoà Phát huy động vốn theo trật tự phân hạng, ưu tiên nguồn nợ vay số 1 và lợi nhuận để lại là ưu tiên cuối cùng. Như vậy, trong thực tiễn, trật tự phân hạng của các loại nguồn vốn rất đa dạng. Doanh nghiệp ưu tiên nợ vay vì đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhất, nguồn vốn truyền thống dễ tiếp cận tại Việt Nam. Đối với nguồn vốn chủ sở hữu, các nhà quản trị không dựa vào chi phí sử dụng vốn. CTCP Hoà Phát ưu tiên phát hành cổ phiếu thường mới và tích luỹ lợi nhuận để lại; trái lại, CTCP xi măng Bỉm Sơn ưu tiên nguồn VCSH nội sinh và lựa chọn phát hành cổ phiếu thường mới là phương án cuối cùng khi phải huy động vốn. Tại thời điểm tiến hành phỏng vấn, phân ngành thép đang ở giai đoạn tăng trưởng triển vọng, cổ phiếu HPG được thị trường đánh giá cao nên huy động vốn thông qua phát hành cổ phần thường mới dễ thực hiện, cung cấp tín hiệu tốt đến thị trường, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu HPG. Trái lại, CTCP xi măng Bỉm Sơn, tương tự như rất nhiều DN xi măng khác, đang ở giai đoạn tiền suy thoái của vòng đời, huy động tăng vốn trong bối cảnh suy thoái kinh tế do đại dịch Covid-19 là không khả thi. Mặt khác, CTCP xi măng Bỉm Sơn hiện chưa có kế hoạch thay đổi cơ cấu sở hữu. Kết quả này cho thấy trong thực tiễn, các nhà quản trị tài chính xét đến nhiều yếu tố khi huy động vốn cho nhu cầu đầu tư mới.

2.2.4.2. Những nhân tố tác động đến quyết định huy động vốn của các nhà quản trị tài chính

Tại phần này, các nhà quản trị tài chính của DN được yêu cầu xếp hạng các yếu tố tác động đến việc huy động vốn cho nhu cầu đầu tư dài hạn trên thang đo Likert 5 mức độ với mức 1 = Không quan trọng và mức 5 = Quan trọng. Bảng dưới đây mô tả điểm trung bình cho từng nhân tố tác động đến quyết định huy động vốn dài hạn của các DN ngành VLXD:

Bảng 2.29: Những nhân tố tác động đến quyết định huy động vốn của nhà quản trị


Nhân tố tác động

Điểm trung bình

Thuế suất

3.6

Dòng tiền tương lai của DA

4.8

Rủi ro của DA

4.6

Duy trì giá trị hiện tại của CP

4.0

Duy trì cơ cấu sở hữu

4.4

Yếu tố vĩ mô (lạm phát, lãi suất)

4.4

Đặc điểm riêng có của doanh nghiệp

4.2


Hai nhân tố có điểm đánh giá cao nhất là dòng tiền tương lai của dự án (4,8/5) và rủi ro của dự án (4,6/5). Tiếp đến là mục tiêu duy trì cơ cấu sở hữu hiện tại và những nhân tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô như lãi suất và lạm phát. Duy trì giá trị hiện tại của cổ phiếu và thuế suất là hai nhân tố nhận được điểm đánh giá trung bình thấp nhất. Kết quả trên cho thấy quyết định huy động vốn có mối quan hệ chặt chẽ với quyết định đầu tư. Các nhà quản trị rất quan tâm đến dòng tiền và rủi ro của DA khi lựa chọn phương thức huy động vốn bởi dòng tiền của dự án đảm bảo khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi vay cho các chủ nợ, gia tăng giá trị DN, và đảm bảo lợi ích cho các chủ sở hữu. Rủi ro của dự án liên quan đến tính chắc chắn của việc thu được dòng tiền trong tương lai, không chỉ đảm bảo khả năng thanh khoản của DN mà còn quyết định mức TSSL đòi hỏi của chủ nợ và chủ sở hữu.

Quyết định về CCNV của các nhà quản trị của các DN VLXD cũng chịu tác động của cơ cấu sở hữu và bối cảnh kinh tế vĩ mô, với số điểm xếp hạng trung bình cao hơn đặc điểm riêng có của DN, thị giá cổ phiếu hiện tại và thuế suất. Có thể lý giải cho việc nhà quản trị ưu tiên nhân tố vĩ mô và cơ cấu sở hữu là do tại thời điểm điều tra, làn sóng dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh tại nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Bối cảnh bất ổn này có thể khiến các nhà quản trị né tránh sự xáo trộn về cơ cấu cổ đông, cũng như chú trọng đến các biến số vĩ mô khi huy động vốn. Ổn định thị giá cổ phiếu chỉ đạt 4.0/5.0, một phần do sự bất ổn của TTCK trong bối cảnh Covid-19, phần khác cũng cho thấy đây không phải

là ưu tiên hàng đầu của nhà quản trị tài chính khi lựa chọn các phương thức huy động vốn cho DN. Kết quả này cũng nhất quán với kết quả của câu hỏi số 1 khi hầu hết các DN tuân theo lý thuyết trật tự phân hạng khi huy động vốn.

Đối với nhân tố “thuế suất”, điểm của nhân tố này đạt 3.6/5.0 là do một DN chọn mức 1 – Không quan trọng. Hai DNNY ngành VLXD là CTCP Hoà Phát và CTCP xi măng Bỉm Sơn đều đánh giá thuế suất là nhân tố “khá quan trọng” hoặc “quan trọng” tác động đến quyết định huy động vốn của nhà quản trị. Điều này cho thấy khi DN đã niêm yết và có quy mô hoạt động lớn, vị thế thị trường cao thì thuế suất là một nhân tố quan trọng trong quyết định huy động vốn. DN đã xét đến những lợi ích về thuế của nợ vay cũng như nghĩa vụ thuế với Nhà nước khi tổ chức huy động vốn cho hoạt động đầu tư.

Trong hai DNNY ngành VLXD, CTCP Hoà Phát xếp hạng “quan trọng” cho tất cả các nhân tố. CTCP xi măng Bỉm Sơn xếp hạng trung bình cho hai nhân tố là “đặc điểm của doanh nghiệp” và “duy trì giá cổ phiếu hiện tại”; xếp hạng cao nhất cho nhân tố “vĩ mô” và nhân tố “dòng tiền tương lai của dự án”. Sự khác biệt này là khá nhất quán với lựa chọn phương thức huy động vốn và thứ tự ưu tiên các nguồn vốn của hai DN. CTCP Hoà Phát có tiềm năng tăng trưởng mạnh, ưu tiên sử dụng nguồn vốn cổ phần thường mới, giữ lại lợi nhuận để lại nhằm tăng năng lực nguồn vốn nội sinh, có xu hướng đánh giá tầm quan trọng của các nhân tố tương đương nhau. CTCp xi măng Bỉm Sơn, do thiết lập và bám sát hệ số nợ mục tiêu, rất quan tâm đến những biến số có tác động đến chi phí sử dụng nợ vay.

2.2.4.3. Những nguyên tắc cần tuân thủ khi hoạch định CCNV của các nhà quản trị tài chính

Tại phần này, các nhà quản trị tài chính của DN được yêu cầu xếp hạng tầm quan trọng của các nguyên tắc khi ra quyết định huy động vốn trên thang đo Likert 5 mức độ với mức 1 = Không quan trọng và mức 5 = Quan trọng. Bảng dưới đây mô tả điểm trung bình cho từng nguyên tắc mà nhà quản trị tài chính cần quán triệt khi ra quyết định huy động vốn dài hạn cho các DN ngành VLXD:

Bảng 2.30: Những nguyên tắc tác động đến quyết định HĐV của nhà quản trị tài chính

Nguyên tắc

Điểm TB

Duy trì sự linh hoạt tài chính

4.4

Đảm bảo hoạt động liên tục

4.8

Xét đến chính sách huy động vốn của công ty đối thủ

2.8

Xét đến phản ứng của thị trường

3.0

Đảm bảo mục tiêu tối đa hoá giá cổ phiếu

3.8

Đảm bảo duy trì chính sách cổ tức ổn định

4.0

Đảm bảo duy trì quyền kiểm soát của những cổ đông hiện tại

4.6

Nhìn chung, các DNVLXD tuân thủ nguyên tắc “đảm bảo hoạt động liên tục” của doanh nghiệp; nguyên tắc “duy trì quyền kiểm soát hiện tại của các cổ đông”, và “duy trì sự linh hoạt tài chính” khi ra các quyết định HĐ vốn. Ba nguyên tắc này nhận được điểm xếp hạng cao nhất. CTCP Hoà Phát đánh giá tất cả các nguyên tắc này ở mức 5 = quan trọng; CTCP xi măng Bỉm Sơn có sự phân hoá giữa các nguyên tắc, chú trọng đến hoạt động liên tục và duy trì quyền kiểm soát của CĐ hiện hữu và đánh giá thấp tầm quan trọng của việc xét đến chính sách huy động vốn của các công ty đối thủ. Kết quả này cho thấy các DNVLXD nói chung và DNNY ngành VLXD nói riêng có xu hướng đảm bảo tính liên tục của hoạt động khi huy động vốn, chú trọng đến tính linh hoạt tài chính và lợi ích của những cổ đông hiện hữu. Chính sách huy động vốn của các công ty đối thủ, phản ứng của thị trường chứng khoán, và chính sách cổ tức ổn định là những nguyên tắc ít được tuân thủ hơn khi ra các quyết định về CCNV. Tại thị trường Việt Nam, việc tìm kiếm một DN cùng ngành có thể so sánh được không dễ dàng, do vậy các nhà quản trị có xu hướng coi nhẹ chính sách huy động vốn của các DN đối thủ. Lý thuyết tín hiệu và thông tin bất cân xứng hoạt động khá yếu ở các DNVLXD. Nhà quản trị của các DN này xếp hạng những nguyên tắc về giá cổ phiếu, phản ứng thị trường, và chính sách cổ tức thấp hơn nguyên tắc tài trợ linh hoạt và nguyên tắc đảm bảo hoạt động liên tục.

2.2.4.4. Đánh giá hệ số nợ mục tiêu và kỳ vọng về lãi suất vay vốn của các nhà quản trị tài chính

Câu hỏi về nhận định chủ quan của nhà quản trị với hệ số nợ hiện tại của DN với hệ số nợ mục tiêu cho thấy 02 DN chọn bằng; 02 DN chọn thấp hơn; và 02 DN chọn cao hơn. DN gạch và xi măng chọn thấp hơn mức mục tiêu, DN thép chọn cao hơn mức mục tiêu. CTCP Hoà Phát có hệ số nợ hiện tại ở mức 0.61, nhà quản trị cho rằng mức này cao hơn mức mục tiêu. CTCP xi măng Bỉm Sơn có hệ số nợ giảm liên tục trong giai đoạn 2018-2020, hiện có mức hệ số nợ là 0.47, nhà quản trị cho rằng mức này thấp hơn mức hệ số nợ mục tiêu. Điều đáng chú ý là trong khi các DN khác chỉ có quan hệ tín dụng với khoảng 3 đến 7 ngân hàng, CTCP Hoà Phát có quan hệ tín dụng với 28 ngân hàng. Trừ CTCP xi măng Bỉm Sơn, các DN khác liên tục ước lượng lại lãi suất tiền vay với các NHTM. Điều này là do các DN xi măng chủ yếu vay nợ dài hạn, tỷ trọng nguồn vốn thường xuyên lớn nên không điều chỉnh lãi suất của các HĐ tín dụng thường xuyên. Trái lại, DN thép chủ yếu dùng nợ ngắn hạn nên thực hiện điều chỉnh chi phí sử dụng nợ vay liên tục. Do ưu tiên sử dụng nợ vay và có những lợi thế nhất định khi tiếp cận nợ vay, khi được hỏi về lãi suất vay vốn dài hạn giai đoạn 2021-2025, CTCP Hoà Phát cho rằng mức lãi suất nên dao động từ 4%

đến 6%/năm trong khi hầu hết các DN khác lựa chọn mức bình quân từ 9% đến 10%/năm.

Tóm lại, kết quả điều tra các nhà quản trị tài chính tại các DNVLXD mặc dù còn hạn chế về cỡ mẫu và chỉ dừng lại ở thống kê mô tả, đã cung cấp cái nhìn sâu hơn về hành vi của các nhà quản trị tài chính khi ra quyết định huy động vốn trong thực tiễn. Khi hoạch định chính sách huy động vốn, các nhà quản trị đều xác định một mức nợ vay mục tiêu trên cơ sở xem xét những nhân tố chủ quan và khách quan. Triển vọng của dự án đầu tư và những rủi ro tiềm ẩn của dự án là yếu tố quan trọng nhất, đặc biệt là với những DNNY có quy mô hoạt động lớn. Nhà quản trị tài chính của có xu hướng tuân theo trật tự phân hạng nhất định khi huy động vốn song thứ tự ưu tiên của các nguồn vốn là không đồng nhất. DN xi măng đã bước vào giai đoạn tiền suy thoái có xu hướng duy trì nghiêm ngặt cơ cấu nguồn vốn mục tiêu, đảm bảo hoạt động liên tục, ưu tiên sử dụng nợ vay để tránh gây xáo trộn cơ cấu cổ đông hiện tại. DN thép đang ở giai đoạn tăng trưởng, triển vọng thị trường khả quan, ưu tiên sử dụng nợ vay và vốn cổ phần thường mới, giữ lại LN để lại nhằm tích luỹ nguồn vốn nội sinh. Các DN cũng cho thấy sự tuân thủ cao nguyên tắc đảm bảo hoạt động liên tục và tính linh hoạt tài chính khi ra quyết định về CCNV. Điều này khác đồng nhất với kết quả của mô hình định lượng khi cho thấy sự tồn tại của hệ số nợ mục tiêu và hành vi điều chỉnh của nhà quản trị về phía hệ số nợ mục tiêu. Hệ số nợ mục tiêu và hành vi điều chỉnh hệ số nợ của các nhà quản trị là không đồng nhất khi xét đến đặc điểm sản phẩm kinh doanh, giai đoạn của vòng đời doanh nghiệp, và bối cảnh ngành.

2.3. Đánh giá chung về cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp niêm yết trong ngành Vật liệu xây dựng giai đoạn 2009-2020

Qua nghiên cứu về cơ cấu nguồn vốn của các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam, có thể rút ra một số nhận định sau:

2.3.1. Những điểm đã đạt được

Thứ nhất, quy mô nguồn vốn kinh doanh của các DN NY trong ngành VLXD NY có sự gia tăng trong giai đoạn 2009-2020. Trải qua một giai đoạn khó khăn khi thị trường bất động sản trầm lắng, hầu hết các doanh nghiệp VLXD đều có sự tăng trưởng về nguồn vốn qua các năm. Bình quân quy mô nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp VLXD NY tăng khoảng 13,56%/năm. Tiêu biểu có một số DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam với mức gia tăng nguồn vốn kinh doanh bình quân rất lớn như: CTCP Tập đoàn Hoà Phát với mức tăng nguồn vốn bình quân 33,15%/năm , CTCP Vicostone với mức tăng nguồn vốn bình quân 23,49%/năm.

Thứ hai, đa phần các nguồn vốn đã được các DN NY trong ngành VLXD sử dụng một cách linh hoạt. Các kênh huy động vốn được đa dạng hoá từ những kênh

huy động vốn truyền thống như vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu đến phát hành trái phiếu (DTL năm 2010, HPG năm 2009). Bên cạnh đó, các hình thức huy động vốn cũng được tổ chức linh hoạt từ những hình thức phổ thông trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu ưu đãi cho người lao động đến phát hành trái phiếu chuyển đổi (như HPG vào năm 2010).

Thứ ba, đa số các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam đã tăng cường tính tự chủ tài chính. Điều này được thể hiện ở sự gia tăng liên tục của tỷ trọng VCSH trong tổng nguồn vốn. Năm 2009, con số này ở mức 33% thì đến năm 2020 đã tăng lên mức 45%. Nâng cao năng lực tự chủ tài chính được thực hiện chủ yếu do kết quả kinh doanh được cải thiện làm tăng nguồn vốn nội sinh và doanh nghiệp tái cơ cấu kỳ hạn nợ.

Thứ tư, Đa phần các DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam đều nỗ lực gia tăng nguồn vốn nội sinh thông qua việc lựa chọn chính sách cổ tức phù hợp. Cổ tức của các DN được duy trì ở mức tương đối cao bằng việc kết hợp giữa hình thức chi trả cổ tức bằng tiền và trả cổ tức bằng cổ phiếu nhằm tích luỹ dòng tiền mặt cho nhu cầu đầu tư cũng như những biến động trong tương lai. Trong đó, những DN có kết quả kinh doanh tốt như HPG, HSG thường ưu tiên lựa chọn trả cổ tức bằng cổ phiếu hơn là trả cổ tức bằng tiền. Một mặt vừa giúp cho DN đảm bảo nguồn lợi nhuận giữ lại tái đầu tư, duy trì hệ số nợ mục tiêu. Mặt khác giúp cho DN vẫn đảm bảo tỷ lệ chi trả cổ tức ở mức cao.

Thứ năm, CCNV của DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam đã cho thấy dấu hiệu thay đổi theo đặc điểm sản phẩm, vòng đời của doanh nghiệp, và chu kỳ kinh doanh của ngành. Hệ số nợ của các DN NY trong ngành VLXD nói chung có xu hướng giảm dần khi ngành bước vào chu kỳ bão hoà tiền suy thoái. Đồng thời, mỗi DN ở từng phân ngành, từng giai đoạn của vòng đời có cơ cấu nguồn vốn mục tiêu và tốc độ điều chỉnh CCNV về CCNV mục tiêu khác nhau. Cụ thể như đối với một số DN thép từ những năm 2016 đến 2020, đã gia tăng sử dụng nợ để đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh (HPG với hệ số nợ gia tăng từ 0,4 lên 0,55 trong giai đoạn 2016-2020). Ngược lại các DN xi măng lại có xu hướng điều chỉnh giảm dần nợ khi mà dư địa tăng trưởng không còn (BCC với hệ số nợ giảm từ 0,59 xuống còn 0,49 hay như HT1 với hệ số nợ giảm từ 0,56 xuống còn 0,46 trong giai đoạn 2016-2020). Kết quả này cho thấy bối cảnh ngành và đặc điểm chu kỳ kinh doanh là nhân tố quan trọng điều chỉnh hành vi của nhà quản trị khi hoạch định CCNV.

Thứ sáu, kết quả định lượng cho thấy ba đặc điểm nổi bật của các nhà quản trị khi hoạch định CCNV cho DN NY trong ngành VLXD ở Việt Nam gồm: (i) ưu tiên tính linh hoạt và khả năng tiếp cận nguồn vốn; (ii) có xác định cơ cấu nguồn vốn mục tiêu và điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn căn cứ vào CCNV mục tiêu; (iii) CCNV mục tiêu được xây dựng dựa trên mục tiêu chiến lược, nhu cầu đầu tư, và những đặc điểm nội tại của doanh

Xem tất cả 241 trang.

Ngày đăng: 21/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí