dụng thuộc quyền của bên giao). Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, do vậy trong hợp đồng sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, các chủ thể có quyền tự do thỏa thuận điều khoản về hành vi được chuyển quyền sử dụng.
Như đã trình bày ở phần đối tượng của hợp đồng chuyển quyền sử dụng, độc quyền sử dụng đối tượng SHCN đối với mỗi đối tượng được thể hiện ở những hành vi cụ thể khác nhau. Nguyên nhân của sự khác biệt này là do tính chất và mục đích, chức năng của từng đối tượng SHCN. Tác giả cho rằng, những hành vi sử dụng đối tượng SHCN hoàn toàn độc lập, tách biệt với nhau và vì vậy mà việc chuyển giao các hành vi thuộc quyền sử dụng đối tượng SHCN cũng không phụ thuộc vào nhau. Tức là, khi chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN, bên chuyển quyền không nhất thiết phải chuyển giao toàn bộ quyền đối với các hành vi sử dụng đối tượng SHCN. Ví dụ chỉ chuyển quyền sản xuất, bán, quảng cáo để bán hàng hóa dịch vụ mang đối tượng SHCN chứ không chuyển quyền nhập khẩu các sản phẩm đó.
Thứ hai, về phạm vi lãnh thổ mà người được chuyển giao có quyền khai thác đối tượng SHCN được chuyển quyền sử dụng. Đối tượng SHCN được bảo hộ trong lãnh thổ quốc gia nơi quyền SHCN của đối tượng SHCN phát sinh, nhưng trong hợp đồng chuyển quyền sử dụng thì việc chuyển giao quyền sử dụng có thể được thực hiện trong phạm vi hẹp hơn, miễn là không rộng hơn phạm vi được bảo hộ. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên chuyển quyền được phép sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp trong một phần hay toàn bộ lãnh thổ được bảo hộ hoặc giới hạn trong không gian nhất định. Ví dụ, chủ sở hữu quyền sử dụng đối tượng SHCN tại Việt Nam có thể chỉ chuyển giao quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân trong một tỉnh thành nào đó trên đất nước Việt Nam nhưng không được rộng hơn ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Thời hạn của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN
Việc các bên thoả thuận thời hạn li xăng là để bảo đảm quyền của bên chuyển giao với việc tối đa hoá lợi ích trong thời gian đối tượng còn giá trị. Các bên phải xác định khoảng thời gian mà bên được chuyển quyền được phép sử dụng đối tượng SHCN theo hợp đồng. Thời hạn hợp đồng phải thuộc thời hạn bảo hộ đối tượng SHCN đó hoặc nếu đây là hợp đồng chuyển giao thứ cấp thì thời hạn này nằm trong thời hạn hợp đồng chuyển giao độc quyền trên thứ cấp.
Giá chuyển giao và phương thức thanh toán
Thông thường để có được quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, bên được chuyển quyền phải trả cho bên chuyển quyền một khoản phí chuyển quyền (còn gọi là phí li-xăng). Phí chuyển quyền sử dụng do các bên thỏa thuận dựa trên cơ sở ước tính hiệu quả kinh tế mà bên được nhận chuyển quyền có thể thu được từ việc sử dụng đối tượng SHCN và phải tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, phụ thuộc vào nhu cầu của các bên khi tham gia vào hợp đồng này, các bên có thể thỏa thuận chi trả cho nhau bằng những lợi ích vật chất khác tương đương giá trị của hợp đồng.
Nếu các bên thỏa thuận chuyển quyền sử dụng miễn phí, hợp đồng cũng phải ghi rõ bên được chuyển giao không phải trả phí sử dụng đối tượng SHCN.
Điều khoản về phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận và các bên cũng có thể thỏa thuận về thời hạn, phương tiện, cách thức thanh toán. Bên được chuyển quyền có thể thanh toán một lần, toàn bộ hoặc nhiều lần tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng.
Quyền và nghĩa vụ của các bên
Có thể bạn quan tâm!
- Sơ Lược Lịch Sử Hoạt Động Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn Trên Thế Giới
- Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
- Nội Dung Của Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
- Thực Tiễn Hoạt Động Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Quyền Shcn
- Số Lượng Đơn Đăng Ký Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn Và Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn Đã Được Đăng Ký
- Một Số Vụ Việc Liên Quan Đến Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên là nội dung cơ bản nhất của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN, nội dung này có thể được quy định trong hợp đồng theo sự thỏa thuận giữa các bên với nhau nhưng không được trái với các quy định của pháp luật.
- Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN Quyền của bên chuyển quyềnbao gồm các quyền:
+ Nhận phí chuyển giao theo mức và cách thức do các bên thỏa thuận.
+ Bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có quyền kiểm tra chất lượng của hàng hóa chứa đối tượng SHCN của bên được chuyển quyền để đảm bảo hàng hóa được sản xuất có chất lượng như hàng hóa do mình sản xuất. Ví dụ, đối với hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu, bên chuyển quyền sử dụng có quyền kiểm tra chất lượng hàng hóa mang nhãn hiệu nhằm mục đích bảo vệ uy tín của nhãn hiệu, ngăn chặn việc bên nhận chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu lợi dụng uy tín của nhãn hiệu để bán những hàng hóa kém chất lượng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như gây thiệt hại cho chính chủ sở hữu nhãn hiệu đó.
Bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có các nghĩa vụ sau:
+ Chỉ được chuyển quyền sử dụng đối tượng trong phạm vi được pháp luật bảo hộ và trong thời hạn bảo hộ. Nếu quyền SHCN thuộc sở hữu chung thì bên chuyển quyền chỉ được chuyển giao phần quyền của mình cho người khác nếu các đồng sở hữu còn lại đồng ý hoặc một số đồng chủ sở hữu chung còn lại không đồng ý nhưng họ không tiếp nhận quyền chuyển giao hoặc không có lý do chính đáng về việc từ chối chuyển quyền sử dụng [10].
+ Đăng ký hợp đồng (nếu bên nhận chuyển giao không có nghĩa vụ này hoặc theo thỏa thuận của hai bên);
+ Nộp thuế chuyển quyền sử dụng theo pháp luật về thuế;
+ Bảo đảm việc chuyển quyền sử dụng không gây tranh chấp với bên thứ ba; nếu việc chuyển quyền sử dụng gây tranh chấp với bên thứ ba thì phải giải quyết tranh chấp vì lợi ích của bên nhận chuyển giao quyền.
- Quyền và nghĩa vụ của bên được nhận chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN
Bên được chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có các quyền sau:
+ Sử dụng đối tượng SHCN độc quyền hoặc không độc quyền trong phạm vi, thời hạn và điều kiện ghi trong hợp đồng;
+ Chuyển giao quyền sử dụng đã được nhận từ bên chuyển quyền cho bên thứ ba, nếu được bên giao quyền sử dụng cho phép;
+ Yêu cầu bên giao quyền sử dụng thực hiện các biện pháp cần thiết, phù hợp để chống lại các hành vi xâm phạm của bên thứ ba gây thiệt hại cho mình;
+ Tiến hành các biện pháp cần thiết để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền của bên thứ ba. Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được thông tin của bên chuyển giao quyền sử dụng rằng sẽ không thực hiện các biện pháp cần thiết, phù hợp để chống lại các hành vi xâm phạm của bên thứ ba thì bên nhận quyền có quyền thực hiện các hành vi ngăn chặn sự xâm phạm quyền nêu trên.
Nghĩa vụ của bên được chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN :
+ Đăng ký hợp đồng (nếu có thỏa thuận);
+ Trả phí chuyển quyền sử dụng cho bên giao theo mức và phương thức thanh toán đã được thỏa thuận (phí li-xăng);
+ Chịu sự kiểm tra về chất lượng hàng hóa, dịch vụ (nếu có thỏa thuận về điều này);
+ Ghi chỉ dẫn trên sản phẩm, bao bì sản phẩm rằng sản phẩm được sản xuất theohợp đồng chuyển quyền sử dụng. Nội dung này là bắt buộc trong trường hợp chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu.
Hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN
Hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN theo thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại Cục sở hữu trí tuệ và sẽ mặc nhiên bị chấm dứt hiệu lực nếu quyền sở hữu công nghiệp của bên giao bị chấm dứt (theokhoản 2 Điều 148 Luật SHTT). Theo đó, đăng ký hợp đồng không phải
là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, tuy nhiên, đăng ký hợp đồng là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực đối với bên thứ ba.
Ngoài ra, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có thể có thêm các điều khoản không trái với quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là các điều khoản sau:
+ Điều khoản về điều kiện sửa đổi, đình chỉ hợp đồng: Thỏa thuận các điều kiện theo đó có thể sửa đổi, đình chỉ, vô hiệu hợp đồng phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Điều khoản này tạo điều kiện để các bên có thể tác động đến hợp đồng nhằm thích ứng với các thay đổi của thực tế so với giai đoạn thoả thuận và thiết lập hợp đồng.Tuy nhiên, các bên tham gia giao kết hợp đồng phải chú ý tới cáctrường hợp bất khả kháng dẫn tới hợp đồng bị đình chỉ hoặc buộc phải chấm dứt.
+ Điều khoản về cách thức giải quyết tranh chấp: Điều khoản này nhằm điều hoà mối quan hệ các bên thông qua chủ thể có chức năng giải quyết tranh chấp. Các bên có thể lựa chọn trong số các cách sau để giải quyết tranh chấp giữa các bên: (i) tự thương lượng; (ii) thông qua trọng tài thương mại;
(iii) thông qua tòa án; hoặc (iv) kết hợp các phương thức trên.
Việc thực hiện, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không được quy định trong Luật SHTT. Tuy nhiên, các bên có thể áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật dân sự năm 2005.
2.2 Những hạn chế việc chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN
Ngoài những điều kiện hạn chế việc chuyển quyền sử dụng đối với tên thương mại và chỉ dẫn địa lý thì trong pháp luật còn quy định những điều kiện hạn chế đối với việc chuyển quyền nhãn hiệu, sáng chế và những điều kiện hạn chế liên quan đến nội dung hợp đồng nhằm chống độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh.
hiệu
2.2.1 Những điều kiện hạn chế việc chuyển quyền sử dụng nhãn
Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức,
cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
Khác với nhãn hiệu thông thường, nhãn hiệu tập thể thuộc về tất cả các thành viên của một tổ chức. Hiện nay rất nhiều nhãn hiệu tập thể đã được bảo hộ cho các sản phẩm của địa phương như: gốm Bát Tràng, sứ Bình Dương, quế Trà Bồng....Việt Nam là một quốc gia có nhiều làng nghề truyền thống, nhiều sản vật địa phương, vì vậy, việc xây dựng nhãn hiệu tập thể cho các làng nghề sẽ giúp ích rất nhiều cho người dân của các vùng này phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.
Các hội viên của nhãn hiệu tập thể được phép sử dụng và khai thác nhãn hiệu tập thể nhưng không được phép chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.Khi một chủ thể muốn sử dụng nhãn hiệu tập thể thì phải được kết nạp vào tập thể chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.
Bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa về việc hàng hóa đóđược sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.
Mục đích của quy định bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu phải ghi chỉ dẫn trên hàng hóa và bao bì hàng hóa về việc hàng hóa đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu là nhằm tránh sự nhầm lẫn giữa những mặt hàng hóa do bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN sản xuất với những sản phẩm hàng hóa do bên được chuyển quyền sử dụng đối tượng
SHCN sản xuất. Khi có bất kỳ khiếu nại nào về chất lượng sản phẩm, có thể dễ dàng truy nguồn trách nhiệm.
Việc ghi chỉ dẫn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa về việc hàng hóa đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho những người tiêu dùng đang đặt niềm tin vào nhãn hiệu đó, thậm chí có thể những sản phẩm của bên được chuyển quyền sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN.
2.2.2 Điều kiện hạn chế chuyển quyền sử dụng sáng chế
Trong trường hợp quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền thì bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế có nghĩa vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế.
Như đã trình bày trong phần đối tượng của hợp đồng chuyển quyền sử dụng các đối tượng SHCN, sáng chế là một giải pháp kỹ thuật đáp ứng những điều kiện bảo hộ và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu sáng chế. Những giải pháp kỹ thuật này luôn hướng tới giải quyết những vấn đề tồn tại trong cuộc sống của con người trong công việc, học tập, nghiên cứu.v.v.Việc sử dụng sáng chế có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với chủ sở hữu sáng chế mà còn đối với toàn thể xã hội. Vì vậy, khi được pháp luật trao quyền SHCN đối với sáng chế, chủ sở hữu sáng chế cũng có nghĩa vụ phải sử dụng sáng chế nhằm cân bằng các lợi ích xã hội.
Khi được xác lập quyền SHCN đối với sáng chế thì chủ sở hữu sáng chế phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định của mình trong đó có nghĩa vụ sử dụng sáng chế. Theo đó, chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ nhằm đáp ứng các nghĩa vụ đối với lợi ích chung của cộng đồng, của quốc gia như nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết của xã hội.
Cần lưu ý rằng, nghĩa vụ sử dụng sáng chế này chỉ được áp dụng đối với những sáng chế được sáng tạo để sản xuất ra những sản phẩm phục vụ quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết của xã hội chứ không phải áp dụng đối với tất cả các sáng chế.
Trong hợp đồng chuyển giao sáng chế độc quyền, toàn bộ quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao cho bên được chuyển quyền sử dụng, chủ sở hữu quyền SHCN đối với sáng chế cũng không có quyền được chuyển giao sáng chế cho tổ chức, các nhân khác và chỉ được sử dụng sáng chế đó nếu được bên được nhận chuyển quyền cho phép.
2.2.3 Điều kiện hạn chế chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN nhằm chống độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh
Độc quyền được hiểu là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế tương tự.Đây là một trong những trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Độc quyền được phân loại theo nhiều tiêu chí: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền... Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra. Trong tình trạng chiếm độc quyền giá bán sẽ tăng lên khi doanh nghiệp có quyền giảm sản lượng sản xuất. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do độc quyền sẽ là rất lớn. Như vậy, tác hại của độc quyền là: giá cao hơn và mức sản lượng thấp hơn cạnh tranh công bằng, khả năng chi phí cao hơn do không có cạnh tranh, bất công bằng trong phân chia thu nhập.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu