dùng. Theo lý thuyết được thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không lành mạnh giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại.
Nhằm chống lại hành vi độc quyền sử dụng đối tượng SHCN và cạnh tranh không lành mạnh của các chủ sở hữu đối tượng SHCN, pháp luật SHTT Việt Nam có quy định các điều khoản không được phép đưa vào hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN. Nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho chủ thể được chuyển quyền, Luật sở hữu trí tuệ đã đặt ra quy định cấm không được đưa ra một số điều khoản trong hợp đồng.Tại khoản 2 Điều 144, luật SHTT quy định về hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN không được có các điều khoản nhằm hạn chế một cách bất hợp lý quyền của bên được chuyển quyền sử dụng, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền:
- Cấm bên được chuyển quyền cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn hiệu; buộc bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển quyền các cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo ra hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải tiến đó;
Khi bên được chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN có những cải tiến đối với đối tượng SHCN, giúp cho đối tượng SHCN trở nên hữu ích hơn thì bên chuyển quyền sử dụng không được quyền cấm bên được nhận quyền thực hiện việc cải tiến này. Nếu đối tượng được cải tiến tạo ra là một đối tượng của quyền SHCN mới thì bên được chuyển quyền cũng có quyền được bảo hộ quyền SHCN đối với đối tượng SHCN như một chủ sở hữu thông thường.
Trong trường hợp bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế có những cải tiến để tạo ra một sáng chế mới là bước tiến quan trọng về mặt kỹ thuật so với sáng chế được chuyển giao, nhưng việc sử dụng sáng chế mới đó phụ thuộc vào sáng chế cũ của bên chuyển quyền sử dụng, thì sáng chế được chuyển giao quyền sử dụng được coi là sáng chế cơ bản và sáng chế mới được tạo ra được gọi là sáng chế phụ thuộc. Theo khoản 1, điều 137, Luật SHTT 2005 sáng chế phụ thuộc là “sáng chế được tạo ra trên cơ sở một sáng chế khác và chỉ có thể sử dụng được với điều kiện phải sử dụng sáng chế cơ bản”. Khi đó, bên được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế có quyền được đăng ký quyền SHCN đối với sáng chế phụ thuộc đó và yêu cầu chủ sở hữu sáng chế cơ bản chuyển quyền sử dụng sáng chế cơ bản cho mình để phục vụ cho việc sử dụng sáng chế phụ thuộc mới được tạo ra.
Ngoài ra, sau khi bên được chuyển quyền đã cải tiến đối tượng SHCN mà bên chuyển quyền lại sử dụng nó như của mình mà không có sự xin phép hoặc trả những khoản phí nhất định cho bên chuyển quyền thì cũng bị coi là vi phạm pháp luật. Điều khoản này giúp thúc đẩy hoạt động sáng tạo của con người, kích thích chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN, tạo ra những đối tượng SHCN hữu ích phục vụ đời sống con người.
- Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp sang các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên chuyển quyền nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hoá đó;
Bên chuyển quyền sử dụng không được phép bắt buộc (trực tiếp hoặc gián tiếp) hạn chế hành vi được chuyển quyền xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ…sang vùng lãnh thổ mà nơi đó bên chuyển quyền sử dụng không có độc quyền sử dụng ở đó. Bên chuyển giao chỉ có quyền cấm bên được chuyển quyền sử dụng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ sang vùng lãnh thổ nơi bên
chuyển giao có độc quyền sử dụng đối tượng SHCN. Điều luật này nhằm chống lại việc sử dụng đối tượng SHCN độc quyền của bên chuyển giao, hạn chế quyền và lợi ích của xã hội bị thay đổi do những yếu tố tác hại của độc quyền gây ra.
Ví dụ, nhãn hiệu của A được bảo hộ tại nước X. A chuyển giao quyền sử dụng cho B. Nếu X là lãnh thổ mà A có độc quyền đối với nhãn hiệu được bảo hộ thì A có thể cấm B không được sử dụng nhãn hiệu tại X. Nhưng tại nước Z nơi A không có độc quyền sử dụng nhãn hiệu thì A không có quyền cấm B xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đó sang nước Z.
Có thể bạn quan tâm!
- Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
- Nội Dung Của Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
- Những Hạn Chế Việc Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
- Số Lượng Đơn Đăng Ký Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn Và Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn Đã Được Đăng Ký
- Một Số Vụ Việc Liên Quan Đến Hợp Đồng Chuyển Quyền Sử Dụng Đối Tượng Shcn
- Chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
- Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp;
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, bên chuyển quyền buộc bên nhận quyền phải mua sản phẩm của mình hoặc của nhà sản xuất do mình chỉ định. Điều khoản này được gọi là điều khoản độc quyền cung cấp và nó chỉ được áp dụng nhằm mục đích đảm bảo lợi ích của các bên khi tham gia vào hợp đồng nhượng quyền thương mại. Đối với bên nhượng quyền họ muốn đảm bảo rằng các sản phẩm do đối tác của mình bán ra đảm bảo được chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà bên nhượng quên đang cố gắng xây dựng. Bên được chuyển quyền cũng được đảm bảo rằng sẽ được cung cấp sản phẩm một cách thường xuyên, ổn định để phục vụ khách hàng. Như vậy, điều khoản độc quyền cung cấp này rõ ràng mang lợi ích cho cả hai bên khi tham gia vào hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Tương tự đối với chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN, việc buộc bên chuyển quyền phải mua các nguyên liệu, linh kiện, thiết bị của bên chuyển quyền sẽ mang lại lợi ích nếu nó nhằm mục đích bảo đảm chất lượng
hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp. Khi đó, bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN sẽ đảm bảo được chất lượng hàng hóa có chứa đối tượng SHCN của mình cũng như xây dựng uy tín đối với những sản phẩm đó trên thị trường. Bên được chuyển quyền sử dụng cũng sẽ được cung cấp những nguồn hàng đáng tin cậy về chất lượng của hàng hóa, dịch vụ, giúp cho sản phẩm được đưa ra thị trường sẽ được người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn hơn. Nhưng, nếu mục đích của việc bắt buộc bên chuyển quyền phải mua các nguyên liệu, linh kiện, thiết bị của bên chuyển quyền không giống như trên mà nhằm tạo thị trường cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế việc phát triển kinh doanh của bên được chuyển quyền thì hoàn toàn không hợp lý và không được pháp luật Việt Nam cho phép.
Trên thực tế, dù ở hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN hay nhượng quyền thương mại nếu có điều khoản về buộc bên được nhận quyền phải mua các nguyên liệu, linh kiện, thiết bị của bên chuyển quyền thì đều gây ra cho bên được chuyển quyền sử dụng những bất lợi nhất định. Đó có thể là:
+ Bên được chuyển quyền không được phép mua các nguyên liệu, linh kiện, thiết bị tương tự của các nhà cung cấp khác.
+ Bên được chuyển quyền rất khó để đàm phán được giá mua hợp lý nhất với bên chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN.
Ngoài ra, nếu điều khoản này không bị hạn chế trong hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN nó còn có thể ảnh hưởng đến tự do cạnh tranh trên thị trường kinh doanh thương mại nói chung.
- Cấm bên được chuyển quyền khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền chuyển giao của bên chuyển quyền.
Vấn đề về hiệu lực của quyền sở hữu hoặc quyền chuyển giao của bên chuyển quyền nếu có bất kỳ sự vi phạm pháp luật nào thì bên được chuyển quyền có thể khiếu nại với cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Điều khoản này hạn chế được phần nào sự lạm dụng quá mức quyền SHCN của chủ sở hữu quyền ngay cả khi nó hết hiệu lực văn bằng bảo hộ.Nếu bên nhận chuyển giao quyền không thể khiếu nại vấn đề này, nó cũng làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của bên được chuyển quyền sử dụng khi tiêu chí về thời hạn bảo hộ của văn bằng bảo hộ quyền SHCN là không còn.Điều này cũng có nghĩa hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đó vô giá trị và rất có thể bên nhận chuyển giao phải chịu nhiều rủi ro về kinh tế.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định, nếu trong hợp đồng sử dụng đối tượng SHCN có các điều khoản nêu trên thì hợp đồng đó mặc nhiên vô hiệu. Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên khi tham gia vào hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN. Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường sẽ không thể lợi dụng quyền sở hữu các đối tượng SHCN nhằm tạo ra độc quyền, và cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế bên được chuyển quyền khai thác triệt để quyền sử dụng đã được chuyển giao. Từ đó ngăn chặn nguy cơ bên được chuyển quyền sử dụng không thể thu hồi vốn và lợi nhuận để bù đắp những chi phí cần thiết trong quá trình sử dụng đối tượng SHCN. Việc đưa ra những hạn chế chuyển quyền sử dụng nêu trên cũng góp phần chống lại thực tiễn thương mại thiếu lành mạnh, là rào cản đối với thị trường tự do và mở cửa.
Ngoài những điều kiện hạn chế chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN nêu trên, đối với tất cả các trường hợp chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN có thêm một giới hạn chung đó là bên được chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ trường hợp được bên chuyển quyền cho phép.Pháp luật trao cho chủ sở hữu đối tượng SHCN độc quyền sử dụng đối tượng đó, độc quyền này cho phép chủ sở hữu quyền cho phép hoặc không cho phép các chủ thể khác sử dụng đối tượng SHCN của mình. Vì vậy, nếu bên được chuyển quyền sử dụng muốn chuyển giao quyền
sử dụng đối tượng SHCN cho chủ thể khác thì nhất thiết phải có được sự đồng ý của chủ sở hữu đối tượng SHCN đó.
Kết luận chương II
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, vươn mình ra hội nhập với nền kinh tế quốc tế, việc khuyến khích phát triển kinh tế thông qua chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc này đang là những thách thức lớn cho Việt Nam và pháp luật Việt Nam khi cần nắm bắt và điều chỉnh phù hợp hoạt động này, phát huy hiệu quả đối với nền kinh tế của chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế đất nước, chúng ta vẫn đang tiếp tục cố gắng nỗ lực hơn nữa trong công cuộc xây dựng pháp luật về bảo hộ quyền SHCN nói chung và hoàn thiện cơ chế pháp lý về chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền SHCN nói riêng.
Có thể nhận thấy một điều rằng, pháp luật Việt Nam về chuyển giao quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu công nghiệp đã thể hiện sự đồng bộ trong việc tuân thủ các Điều ước quốc tế về vấn đề này. Những nội dung cơ bản của hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, những yếu tố hạn chế chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN phù hợp với tính chất và mục đích của mỗi đối tượng. Tuy nhiên, từ pháp luật đến thực tiễn vẫn còn xảy ra nhiều khúc mắc chưa thể giải quyết.Những vấn đề này sẽ được tiếp tục làm rõ ở chương III của luận văn.
CHƯƠNG III THỰC TRẠNG CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
3.1 Thực tiễn hoạt động chuyển quyền sử dụng đối tượng quyền SHCN
3.1.1 Khái quát hoạt động chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN
Chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN đang trở thành một công cụ hữu hiệu để phát triển kinh tế, khai thác quyền SHCN đối với các đối tượng SHCN và thúc đẩy sức sáng tạo của con người. Đây được coi là một hình thức kinh doanh thương mại hiệu quả các đối tượng SHCN. Đối với bên chuyển quyền sử dụng thì việc thực hiện hợp đồng li-xăng giúp khai thác tối đa đối tượng SHCN của mình còn đối với bên được chuyển quyền thì hợp đồng li-xăng giúp tiết kiệm chi phí cho việc tạo ra một đối tượng SHCN mới phù hợp với sản phẩm được sản xuất. Việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng SHCN cũng là một chiến lược cần được các doanh nghiệp tính toán cẩn trọng.
Li-xăng các đối tượng SHCN cũng được đặt ra trong một số trường hợp như chi phí đưa sản phẩm ra thị trường quá lớn, do đó, việc tận dụng tiềm năng sẵn có từ các đối tượng SHCN luôn là lựa chọn tối ưu cho các doanh nghiệp. Ví dụ, việc các doanh nghiệp có thể thực hiện hợp đồng li-xăng nhãn hiệu nhằm tận dụng uy tín, thị trường mà nhãn hiệu đó đã có để bán sản phẩm của mình. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc tham gia vào một chuỗi các dây chuyền sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm của những nhãn hiệu đã nổi tiếng có thể là lối đi tắt hợp sức hơn. Các doanh nghiệp song song đạt được hai mục tiêu, đó là vừa được mang nhãn hiệu nổi tiếng với chi phí thấp hơn,