nguyên – Đông Nam Bộ có tới gần 10.000 ha RPH, RĐD bị tàn phá mỗi năm104. Gần đây nhất là vụ phá RĐD nghiêm trọng Bà Nà – Núi Chúa ở Đà Nẵng, chặt phá công khai RPH Nam Cát Tiên ở Đăk Nông, phá PRH Phú Quốc…. Nguyên nhân mất rừng xuất phát từ nhiều lí do, trước hết xuất phát từ sự quản lý chưa hiệu quả của các Ban quản lý. Với nguồn kinh phí hoạt động hạn chế, lực lượng mỏng lại phải duy trì kiểm soát một diện tích rừng tương đối lớn có nguy cơ bị xâm hại cao do có nhiều loài thực vật, động vật giá trị cao sinh trưởng trong khu rừng gây ra nhiều khó khăn cho các lực lượng chức năng trong công tác bảo vệ rừng. Mặt khác, Ban quản lý RPH, RĐD với tư cách là một chủ rừng nhưng lại thiên về quản lý Nhà nước, chế độ "hưởng lợi" từ khu rừng họ đang quản lý hầu như không có (khai thác rừng hạn chế, không được chuyển nhượng, góp vốn, bảo lãnh giá trị quyền sử dụng rừng như các chủ rừng khác) không những khiến các Ban quản lý không thể thực hiện tốt nghĩa vụ với rừng mà đôi khi còn lí giải vì sao là chủ rừng nhưng lại vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng.
Đối với cộng đồng dân cư thôn, Trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhiều quốc gia như Campuchia, Bu-tan, Indonesia, Thái Lan… cũng áp dụng phương thức giao rừng cho cộng đồng dân cư địa phương vùng có rừng như một biện pháp bảo tồn rừng hiệu quả105. Ở Việt Nam, tính đến hết năm 2013, đã giao cho cộng đồng quản lý trên toàn quốc gần 600.000 ha rừng chiếm 4,3% tổng điện tích rừng trong cả nước, trong đó, rừng tự nhiên chiếm tuyệt đại đa số lên đến 96%, rừng trồng chỉ chiếm có 4%106. Việc Nhà nước giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn không những góp phần nâng cao công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng mà còn tạo cơ hội cải thiện kinh tế, tăng thu nhập cho một cộng đồng nhất định từ sản xuất lâm nghiệp kết hợp du lịch sinh thái, những thành quả này là không thể phủ nhận thông qua ví dụ điển hình giao rừng cho cộng đồng ở huyện Phú Lộc – tỉnh Thừa Thiên Huế107. Tuy nhiên qua một thời gian thực hiện chính sách giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn đã bộc lộ một số bất cập đáng kể trên thực tế:
Một là, một trong những căn cứ quan trọng để tiến hành giao rừng cho một cộng đồng dân cư là dựa vào tầm ảnh hưởng của khu rừng đối với một nhóm dân cư nhất định, đặc biệt là về văn hóa, tín ngưỡng, truyền thống lâu đời gắn liền với đời sống tâm linh như rừng thiêng, rừng ma, rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho
104 Cao Nguyên, "Mỗi năm mất 31.000 ha rừng", http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/moi-nam-mat- 31000-ha-rung-20111022103614836.htm, truy cập ngày 13/7/2015
105 Gia Minh, "Giao rừng cho cộng đồng dân cư: Một cách bảo tồn rừng", http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ScienceAndEnvironment/com-fores-way-to-conser-
12152013052944.html, truy cập ngày 02/7/2015.
106 QĐ 3322/ QĐ-BNN-TCLN
107 Lê Quang Vĩnh, Ngô Thị Phương Anh và cộng sự (2012), "Đánh giá hiệu quả quản lý rừng cộng đồng tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế", Tạp chí khoa học – Đại học Huế, Số 6, tr.230
cộng đồng đa phần là của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Vấn đề đặt ra là, các cộng đồng dân tộc này khi quản lý rừng thường không áp dụng pháp luật về lâm nghiệp hiện hành của Nhà nước mà thường sử dụng luật tục truyền thống từ xưa để lại gây không ít khó khăn cho các cơ quan quản lý rừng thực hiện đồng bộ các quy hoạch, kế hoạch quản lý và bảo vệ rừng trên địa bàn, mặt khác sự hạn chế về nhận thức pháp luật cũng khiến nhiều mô hình giao rừng cho cộng đồng dân cư khó thành công trên thực tế khi không thể thiết kế một kế hoạch phát triển rừng cụ thể để vận hành các hoạt động trong khu rừng của cộng đồng sao cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc Trưng Của Chế Độ Sở Hữu Toàn Dân Đối Với Tài Nguyên Rừng Ở Việt Nam
- Hình Thức Sở Hữu Tư Nhân Đối Với Rừng Sản Xuất Là Rừng Trồng
- Thu Hồi Rừng, Chuyển Mục Đích Sử Dụng Rừng 95
- Chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam - 7
- Chế độ sở hữu đối với tài nguyên rừng ở Việt Nam - 8
Xem toàn bộ 66 trang tài liệu này.
Hai là, điều kiện kinh tế nói chung của các cộng đồng dân cư nơi địa bàn có rừng tương đối thấp trong khi rừng được giao cho cộng đồng lại là diện tích rừng nghèo kiệt, trữ lượng thấp, nguồn ngân sách hỗ trợ còn nhiều hạn chế cũng gây nhiều khó khăn cho hoạt động tái sinh rừng.
Ba là, cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước công nhận quyền sử dụng rừng, bảo vệ và phát triển rừng như các chủ rừng khác nhưng không được công nhận tư cách chủ rừng, không được chuyển nhượng, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng do cộng đồng đầu tư.
Thứ ba, quy định về thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng chưa đáp ứng được yêu cầu bảo tồn vốn rừng,
Về phân loại rừng, việc quản lý và bảo vệ rừng theo 3 loại rừng là RPH, RĐD, RSX như hiện nay tạo ra nhiều khó khăn cho việc xây dựng chiến lược, lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của từng địa phương do khó xác định được chính xác được loại rừng, nhiều khu vực có rừng nhưng diện tích rừng bị chia nhỏ thành nhiều loại nằm xen kẽ nhau, không tập trung. Thêm vào đó, bản thân mỗi loại rừng đều có các chức năng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên và có thể đưa vào sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng việc phân chia theo 3 loại rừng đã tuyệt đối hóa chức năng của từng loại rừng, không những làm cho các chủ rừng khó phát huy được hiệu quả quản lý, sử dụng rừng mà còn chưa thực sự phù hợp với cách phân loại rừng của quốc tế.
Về lập quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo vệ rừng, các cơ quan quản lý lâm nghiệp các cấp như Tổng cục Lâm nghiệp, Sở NNPTNT là các cơ quan chuyên môn song lại chưa tham gia nhiều vào việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng ở từng địa phương hay hỗ trợ cho UBND các cấp thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh nội dung quy hoạch, kế hoạch; quyết định xác lập các khu rừng. Điều này khiến cho các quy hoạch, kế hoạch khó đảm bảo được tính phù hợp với thực
tiễn. Bên cạnh đó, UBND cấp xã bị hạn chế rất nhiều về năng lực chuyên môn của cán bộ, kinh phí hoạt động thấp, lực lượng mỏng lại có thẩm quyền lập quy hoach, kế hoạch sử dụng rừng ở địa phương là chưa hợp lý.
Về chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, Luật BVPTR nước ta khá cởi mở về việc lập quy hoạch, kế hoạch, trao quyền tự chủ cho các địa phương, trong đó có hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển của của tỉnh đó. Hiện nay, hầu hết các tỉnh đều hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế, điều này đã dẫn tới hệ quả là trong năm 2013, có 37 tỉnh chuyển 9.528,48 ha rừng sang mục đích khác không phải lâm nghiệp, trong đó: khai thác khoáng sản 1.014,99 ha; thuỷ điện 332,71 ha; thuỷ lợi 451,41 ha; làm đường 461,57 ha; khu du lịch và sân golf 13,79 ha; khu công nghiệp, cảng 37,21 ha; nông nghiệp 2.868,57
ha; an ninh - quốc phòng 136,01 ha; mục đích khác 4.212,23 ha108.
Đối với các dự án phải chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, các đơn vị khi trình dự án phải đồng thời có báo cáo đánh giá tác động môi trường, có phương án đền bù giải phóng mặt bằng khu rừng, đảm bảo trồng rừng mới thay thế diện tích rừng sẽ chuyển sang mục đích sử dụng khác có sự phê duyệt của các cơ quan có thẩm quyền hoặc phải nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng109. Tuy nhiên, tính riêng với các dự án thủy điện, đến tháng 10/2013, diện tích rừng trồng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng chỉ đạt 13% (2.571 ha/19.805,3 ha)110 và chưa có một chủ đầu tư dự án thủy điện nào nộp tiền về Quỹ111. Bên cạnh đó, các vị trí các công trình thủy điện hầu hết ở vùng núi cao, khu vực đầu nguồn nên diện tích rừng bị chuyển đổi đa phần là rừng tự nhiên; tính bình quân, một nhà máy thủy điện cần 59 ha rừng mà Việt Nam có gần 834 công trình thủy điện lớn nhỏ112, như vậy có tới gần 20.000 ha rừng trong đó bao gồm 3.060 ha RPH, 4.411 ha RĐD phải nhường đất cho thủy điện113 (số liệu thống kê tới năm 2013).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện các biện pháp khôi phục rừng sau khi chuyển mục đích sử dụng khó triển khai trên thực tế, theo Thông tư Số 24/2013/TT-BNNPTNT của Bộ NNPTNT ban hành ngày 06/5/2015 quy định về trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác tại khoản 1 Điều 3: "Tổ chức, cá nhân là chủ dự án có chuyển mục đích sử dụng
108 Bộ NNPTNT (2013), Báo cáo phát triển ngành lâm nghiệp 2013, Hà Nội, tr.12
109 Khoản 5 Điều 29 NĐ 23/2006/NĐ-CP
110 Bộ NNPTNT (2013), tlđd (108), tr.12
111 Hiếu Lam, "Chưa có đồng nào về quỹ phát triển rừng sau thủy điện", http://baodatviet.vn/kinh- te/doanh-nghiep/chua-co-dong-nao-ve-quy-phat-trien-rung-sau-thuy-dien-2358982/, truy cập ngày 12/7/2015.
112 Duy Quốc, "Một thủy điện mất 59 ha rừng", http://baodatviet.vn/kinh-te/doanh-nghiep/chua-co- dong-nao-ve-quy-phat-trien-rung-sau-thuy-dien-2358982/., truy cập ngày 12/7/2015.
113 Thu Sương, "20.000 ha rừng bị thủy điện "ngốn"", http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/20000-ha- rung-bi-thuy-dien-ngon-20121031100457303.htm, truy cập ngày 12/7/2015.
rừng sang mục đích khác chịu trách nhiệm tổ chức lập phương án trồng rừng thay thế" trong khi các chủ dự án này không hề có chức năng hay chuyên môn nghiệp vụ về lâm nghiệp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của phương án, thời gian chờ thẩm định, phê duyệt từ phía các cơ quan có thẩm quyền; việc tìm quỹ đất phù hợp để trồng rừng mới thay thế cho diện tích rừng trước đó cũng không dễ dàng bởi vướng mắc quy hoạch, kế hoạch đất lâm nghiệp; để khắc phục những khó khăn đã nêu Nhà nước cho phép các chủ dự án lựa chọn nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng song do thiếu các quy định thời hạn nộp, cơ chế phạt nộp trễ hạn nên các chủ dự án thường trì hoãn mặc dù đã nhận rừng.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác mà không có phương án tái sinh các diện tích rừng đã mất một cách hiệu quả đang làm suy thoái nguồn tài nguyên rừng một cách nhanh chóng, đặc biệt đối với những khu rừng tự nhiên một khi bị khai thác triệt để trên diện tích lớn sẽ không có cơ hội phục hồi, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường trong tương lai. Mặt khác, lợi ích đạt được từ những dự án chuyển đổi rừng cũng chưa thực sự bù đắp được những thiệt hại do mất rừng gây ra. Nhà nước cần xây dựng những phương án cụ thể, thiết thực hơn để vừa đảm bảo quỹ đất cho xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế vừa bảo tồn tốt nguồn tài nguyên rừng ở nước ta.
Thứ tư, một số bất cập trong quy định của pháp luật về giao rừng, cho thuê rừng
Hiện nay, các tổ chức kinh tế được giao RSX là rừng tự nhiên có thu tiền sử dụng rừng đối nhưng phần lớn rừng giao cho chủ rừng này là rừng nghèo, rừng phục hồi, chưa thể đưa vào khai thác trong một thời gian dài và cần một số vốn rất lớn để phát triển rừng. Hơn nữa khi khai thác rừng, chủ rừng đã phải đóng thuế tài nguyên do vậy nếu vẫn quy định tổ chức kinh tế phải nộp tiền sử dụng rừng cho loại rừng này khi lợi ích thu được từ rừng chưa có là không phù hợp.
Nội dung pháp lý về quyền sử dụng, quyền hưởng lợi từ rừng tự nhiên cũng chưa được quy định rõ ràng, minh bạch trong các văn bản pháp lý, đặc biệt là mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nước - với tư cách là đại diện chủ sở hữu rừng tự nhiên và chủ rừng với tư cách là người được nhà nước giao quyền sử dụng rừng thông qua hình thức giao rừng, cho thuê rừng. Các chính sách giao, cho thuê rừng thường hướng vào bảo vệ tài nguyên thiên nhiên hơn là bảo hộ tài sản và lợi ích chính đáng của các chủ rừng.
Luật BVPTR quy định tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước được Nhà nước cho thuê rừng thu tiền thuê rừng hàng năm, trong khi đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài lại được chọn trả tiền thuê rừng
hàng năm hoặc trả tiền một lần cho cả thời gian thuê. Điều này dẫn đến sự không bình đẳng giữa tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
2.3 Hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu rừng ở Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng cơ chế hỗ trợ cho các chủ sở hữu RSX là rừng trồng.
Quan điểm chỉ đạo của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là "khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng và chế biến lâm sản theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng" để đến hết năm 2015 cả nước có 5 triệu ha RSX, bình quân mỗi năm 250 nghìn ha114. Để đạt được mục tiêu này Nhà nước cần quan tâm khắc phục khó khăn cho các chủ sở hữu RSX là rừng và tạo cơ hội công nhận quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng rừng nhưng còn thiếu một số điều kiện nhất định. Cụ thể:
Về vấn đề tài chính, thay vì thực hiện cơ chế hỗ trợ vốn115 (hỗ trợ sau đầu tư và hỗ trợ đầu tư) như hiện nay Nhà nước nên đẩy mạnh việc thành lập các nguồn vay ưu tiên, cho vay với lãi suất ưu đãi trong thời gian dài, chủ rừng có thể hoàn trả khoản vay sau khi rừng đã đi vào khai thác, tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ nước ngoài như ODA, vốn cho các dự án phát triển theo Cơ chế AR-CDM, REDD+… rồi chuyển giao lại cho các đối tượng trong nước còn thiếu hụt vốn phát triển rừng. Nhân rộng các mô hình cho vay lại đã đạt những thành công nhất định như mô hình Dự án phát triển Lâm nghiệp do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ đã mang lại hiệu quả mạnh mẽ về kinh tế, tác động tích cực về xã hội và môi trường cho các cộng đồng dân cư. Triển khai từ năm 2005 đến năm 2015 tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Nghệ An và Thanh Hóa, hơn 43.000 hộ dân đã được tiếp cận với các khoản vay lãi suất thấp và hỗ trợ kỹ thuật để trồng hơn 76.500 héc
ta rừng bằng chính vốn vay từ thế chấp quyền sử dụng đất rừng116. Cần chú ý rằng
các biện pháp này không phải là Nhà nước trợ cấp cho chủ rừng trồng rừng thuộc sở hữu Nhà nước mà hướng tới chuyển giao quyền sở hữu RSX là rừng trồng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoặc hỗ trợ các chủ sở hữu RSX là rừng trồng an tâm phát triển khu rừng của mình. Bởi so với các chủ rừng chỉ có quyền sử dụng rừng,
114 Điều 1, 2 QĐ 147/2007/QĐ-TTg
115 Điều 4 QĐ 147/2007/QĐ-TTg: "1. Hỗ trợ sau đầu tư: là hình thức hỗ trợ mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng có đất quy hoạch là rừng sản xuất tự tổ chức trồng rừng, sau khi rừng trồng được nghiệm thu, Nhà nước sẽ thanh toán cho người trồng rừng phần vốn hỗ trợ theo quy định tại Quyết định này.
2. Hỗ trợ đầu tư: là hình thức hỗ trợ một phần vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng để trồng rừng."
116 "Hỗ trợ trồng rừng bền vững tại Việt Nam",
http://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2015/03/27/supporting-sustainable-forest-plantations- in-vietnam, truy cập ngày 15/7/2015
chủ sở hữu RSX là rừng trồng luôn đầu tư và bảo vệ cho diện tích rừng mình đang quản lý tốt hơn khi lợi ích của họ gắn liền với RSX là rừng trồng.
Về kỹ thuật nuôi trồng, hiện nay, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh các địa phương đều có tổ chức các cơ sở khuyến lâm, cơ sở hướng dẫn về lâm nghiệp tuy nhiên đa phần hoạt động mang tính hình thức, hoạt động không thường xuyên do vậy chưa thể hiện được vai trò quan trọng trong việc đồng hành cùng các chủ rừng phát triển rừng. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm từ Phần Lan - một trong những quốc gia thực thi thành công nhất việc bảo vệ và quản lý rừng bền
vững với hơn 74% diện tích rừng thuộc sở hữu tư nhân117. Quốc gia này xây dựng
các dịch vụ lâm nghiệp trên cả nước được chia thành hai phần, một phần là hỗ trợ các khu rừng nhà nước và một phần có trách nhiệm giám sát và hỗ trợ hoạt động lâm nghiệp tư nhân trong đó có hỗ trợ chủ rừng lập kế hoạch phát triển rừng, dạy kỹ thuật nuôi trồng và chăm sóc rừng đạt tiêu chuẩn để lấy được Chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn chung của EU118. Mô hình vừa cho vay vốn vừa hỗ trợ kỹ thuật của Dự án phát triển Lâm nghiệp do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tại các tỉnh miền Trung cũng đáng để học hỏi, khi những người chủ sở hữu RSX là rừng trồng có thể thu được lợi nhuận cao từ chính khu rừng mình bỏ vốn đầu tư, thậm chí là đạt tiêu chuẩn lấy chứng chỉ rừng quốc tế.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động điều phối rừng của Nhà nước
Thay đổi quy định về phân loại rừng, vẫn căn cứ vào mục tiêu sử dụng song chỉ chia làm hai loại (1) RSX hay rừng kinh tế, gồm toàn bộ diện tích RSX, RPH xung yếu và ít xung yếu119 hiện nay và (2) Rừng bảo vệ, bảo tồn, bao gồm toàn bộ diện tích RĐD và RPH rất xung yếu hiện nay. Cách thức phân loại mới tương đối phù hợp với quy định của quốc tế, thuận lợi cho tổ chức quản lý một cách thống nhất, thống nhất, tạo điều kiện mở rộng rừng RSX chuyên canh. Để từng bước thực hiện phân loại lại rừng Nhà nước nên chuyển đổi những diện tích RPH ít xung yếu sang RSX nhưng vẫn đảm bảo chức năng phòng hộ của chúng120.
117 Ministry of Agriculture and Forestry (2006), Forests and Forestry in Finland, Filand, pp.1-2
118 Sofia Hirakuri, "How Finland made forest owners follow the law", www.cifor.org/online-library/polex-cifors-blog-for-and-by-forest-policy-
experts/english/detail/article/1222/how-finland-made-forest-owners-follow-the-law-1/browse.html., truy cập ngày 01/7/2015.
119 Vùng rất xung yếu: Bao gồm những nơi đầu nguồn nước, có độ dốc lớn, gần sông, gần hồ có nguy cơ bị xói mòn mạnh, có yêu cầu cao nhất về điều tiết nước.
Vùng xung yếu: Bao gồm những nơi có độ dốc, mức độ xói mòn và điều tiết nguồn nước trung bình, nơi có điều kiện kết hợp phát triển sản xuất lâm nghiệp, có yêu cầu cao về bảo vệ đất và sử dụng đất Vùng ít xung yếu: Bao gồm những nơi có độ dốc thấp, ít nguy cơ xảy ra xói mòn, dòng chảy và các sự cố khác về môi trường. – Theo Quyết định 61/2005/QĐ-BNN của Bộ trưởng BNNPTNT ngày 12/10/2005 về ban hành bản quy định về tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ.
Nâng cao vai trò của các cơ quan chuyên môn về lâm nghiệp trong các hoạt động lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, giao rừng, cho thuê rừng… Cần bãi bỏ thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch của UBND cấp xã.
Yêu cầu xây dựng thống nhất giữa chế độ pháp lý của tài nguyên rừng và chế độ pháp lý đối với đất rừng bằng cách xây dựng khung pháp lý quy định về việc phối hợp cũng như trách nhiệm của ngành NNPTNT và ngành Tài nguyên môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, đảm bảo việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kịp thời với việc giao rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân121.
Nhà nước nên cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước khi thuê rừng được lựa chọn giữa hai hình thức thuê rừng trả tiền thuê một lần và thuê trả hàng năm để ưu tiên tối đa hóa cơ hội tiếp cận rừng của các chủ rừng trong nước trước cũng như thu hút vốn đầu tư vào rừng.
Để tránh tình trạng suy thoái tài nguyên rừng do rừng bị chuyển đổi mục đích sử dụng sang mục đích khác như hiện nay cần quy định chặt chẽ hơn về thẩm quyền cho chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đặc biệt với những dự án sử dụng đến đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng chắn sóng lấn biển, bảo vệ môi trường từ 200 ha trở lên; RSX từ 500 ha trở lên phải trình Quốc Hội quyết định chủ trương đầu tư.
Bên cạnh đó, các dự án đầu tư trên diện tích rừng chuyển đổi bắt buộc phải làm báo cáo đánh giá tác động môi trường phải và có ý kiến bằng văn bản của cơ quan chuyên ngành cấp trên; có sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp và cơ quan thẩm định độc lập; có phương án đền bù giải phóng mặt bằng khu rừng có sự đồng thuận của cộng đồng dân cư địa phương nơi bị chuyển đổi và phối hợp với các cấp chính quyền địa phương lên phương án trồng rừng mới thay thế diện tích bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Chỉ khi các chủ dự án hoàn thành phương án trồng rừng thay thế hoặc đã nộp tiền về Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng họ mới được Nhà nước giao rừng để thực hiện các dự án theo hồ sơ đã đăng ký.
Thứ ba, xã hội hóa nghề rừng, góp phần nâng hiệu quả của các hình thức sở hữu đối với rừng
Trong quá trình tái cơ cấu ngành lâm nghiệp ở Việt Nam, chủ trương xã hội hóa nghề rừng luôn được đặt lên hàng đầu nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư cho bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
Xã hội hóa trong ngành lâm nghiệp Việt Nam được hiểu là sự tham gia rộng rãi của các chủ thể trong xã hội như hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng và các tổ chức vào thực hiện các hoạt động gây trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường, mang lại lợi ích thiết thực cho các thủ thể tham gia, mà trước đó các hoạt động này do các cơ quan Nhà nước, các thành phần kinh tế Nhà nước và tập thể quản lý và thực hiện là chủ yếu122. Hiểu đơn giản, xã hội hóa lâm
nghiệp tức là tạo cơ hội tiếp cận rừng bình đẳng cho mọi cá nhân trong xã hội, trao quyền định đoạt nhiều hơn cho các chủ rừng đang trực tiếp quản lý rừng, chủ rừng được hưởng lợi ích nhiều hơn từ chính khu rừng họ đầu tư sản xuất thay vì chủ yếu thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước như trước đây.
Để từng bước hoàn thiện xã hội hóa lâm nghiệp ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó ưu tiên hàng đầu là đẩy mạnh giao, cho thuê những diện tích rừng chưa có chủ rừng do UBND quản lý tới các đối tượng chủ rừng trong xã hội, Nhà nước nên chỉ đóng vai trò quản lý hoạt động của các chủ rừng bởi rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng của quốc gia đồng thời là nguồn tư liệu sản xuất có thể đem lại những lợi ích kinh tế rất cao nếu được quản lý và sử dụng hiệu quả.
Khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng đầu tư sản xuất lâm nghiệp bằng các hoạt động khuyến lâm, hỗ trợ các hộ nông dân, cộng đồng về giống, kỹ thuật, vốn và đầu ra để họ chủ động đầu tư vào sản xuất trên các diện tích rừng và đất rừng đã nhận. Tăng tính tự chủ cho các chủ rừng trong công tác lập kế hoạch phát triển phù hợp cho khu rừng của mình không quan trọng nguồn gốc vốn đầu tư là của Nhà nước hay tư nhân.
Đối với Ban quản lý RPH, RĐD: Được khai thác rừng theo phương án quản lý rừng bền vững, được ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trong khu rừng phòng hộ; được Nhà nước cấp kinh phí sự nghiệp thường xuyên và được cấp kinh phí quản lý, bảo vệ rừng ổn định để tổ chức thuê, khoán, hợp đồng cộng đồng dân cư tại chỗ, mua sắm trang thiết bị để quản lý, bảo vệ rừng; Ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng dân cư thôn bản để đồng quản lý RPH, RĐD; khuyến khích ban quản lý tổ chức du lịch sinh thái trong rừng phòng hộ hoặc liên kết với các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch sinh thái; được thực hiện các dịch vụ môi trường rừng để tạo nguồn thu cho quản lý bảo vệ rừng
122 Nguyễn Bá Ngãi, "Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa trong ngành lâm nghiệp",www.isgmard.org.vn, truy cập ngày 19/7/2015.