Giải Pháp Chuyển Dịch Cơ Cấu Đầu Tư Tại Vietinbank



- Mở rộng cho vay khách hàng là DNNVV, các doanh nghiệp FDI:

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, đến cuối năm 2016 ở Việt Nam có tới 97% là các DNNVV. Do cản trở từ nhiều phía, hiện dư nợ cho vay đối với DNNVV mới chỉ có khoảng 30% tổng dư nợ KHDN của hệ thống ngân hàng [91]. Trong định hướng hoạt động cho vay, Vietinbank cũng xác định khu vực DNNVV là thị trường tiềm năng cần phát triển. Tuy nhiên, những yêu cầu trong quá trình vay vốn: tài sản bảo đảm khoản vay đặc biệt là độ tín nhiệm của đối tượng khách hàng này còn hạn chế, đó là rào cản rất lớn để các DNNVV có thể tiếp cận được vốn vay từ Vietinbank cũng như từ các TCTD khác.

Qui định mới trong quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng theo TT39/2016/NHNN hiệu lực từ 15/3/2017 thì bảo đảm tiền vay sẽ không còn là một trong 05 điều kiện vay vốn của khách hàng như trước đây nữa. Như vậy, thời gian tới Vietinbank cần thực hiện các giải pháp có hiệu quả hơn nữa để thực hiện chiến lược kinh doanh nhằm phát triển khu vực khách hàng DNNVV. Ngân hàng cần đổi mới cách thức tiếp cận phù hợp hơn trong hoạt động cho vay theo hướng tăng cường các thông tin minh bạch, có pháp luật bảo vệ để dần thay cho tài sản thế chấp. Các chính sách cần thực hiện theo hướng “nới lỏng” các yêu cầu liên quan đến bảo đảm tiền vay, lãi suất và phí cho vay trên cơ sở “khẩu vị” RRTD. Đối với DNNVV có tình hình tài chính lành mạnh, thị trường đầu ra ổn định, có uy tín, hoạt động hiệu quả, áp dụng nhiều công nghệ, thành tựu khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại trong sản xuất thì mở rộng cho vay tín chấp hoặc chỉ yêu cầu một tỷ lệ tài sản bảo đảm nhất định, đưa ra những chương trình ưu đãi áp dụng những khách hàng tiềm năng,…

Ngân hàng cần tập trung chú trọng phát triển các cơ chế, chính sách cho đối tượng khách hàng DNVVN như: chủ động tìm kiếm và thu hút khách hàng DNVVN thông qua tài trợ cho chuỗi nhà cung ứng, nhà phân phối; tập trung phát triển khách hàng theo định hướng ngành nghề;... Xây dựng chính sách lãi suất kinh doanh hợp lý và linh hoạt; Tăng cường mối quan hệ với các tổ chức Hiệp hội ngành nghề để có các thông tin tin cậy về các DNNVV. Trên cơ sở đó, rút ngắn thời gian thẩm định và ra quyết định cho vay, đặc biệt là đối với các đối tượng ưu tiên. Ngân hàng có thể cho vay tín chấp thông qua bảo lãnh của


Hiệp hội cho các thành viên của Hội, giúp các doanh nghiệp có thể vượt qua các rào cản về tài sản bảo đảm, cũng như những hạn chế về tính minh bạch của thông tin tài chính.

Ngoài ra, cần tăng cường hỗ trợ và tư vấn hiệu quả các DNNVV, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phi tài chính miễn phí cho DNNVV. Bởi nó không chỉ là mang lại ý nghĩa thiết thực cho các doanh nghiệp mà còn tạo nên uy tín và sự gắn bó lâu dài của khách hàng với Ngân hàng. Để hỗ trợ DNNVV có thể tiếp cận nhanh nhất và sử dụng có hiệu quả các chương trình vốn ưu đãi VietinBank đã dành một phần khoản lãi vay từ các chương trình tín dụng quốc tế, các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế và tiếp tục mở các khoá đào tạo về lập phương án, dự án kinh doanh, nâng cao năng lực quản lý tài chính,… cho các doanh nghiệp. Tư vấn cho khách hàng về các nguồn vốn hợp lý và các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất và thanh toán.

- Phát triển cho vay khách hàng cá nhân:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Ở nước ta, nếu trước đây các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ xuất khẩu tăng trưởng nhanh thì hiện tại nhóm ngành có biên lợi nhuận cao và hấp dẫn với các nhà đầu tư trên TTCK lại là ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước hướng đến nhóm khách hàng tiêu dùng, lao động ở tầng lớp trung lưu. Trong bối cảnh đó, Vietinbank cần tăng cường chuyển dịch cơ cấu cho vay theo hướng phù hợp với xu hướng hướng tới nền kinh tế tiêu dùng. KHCN vay vốn ngân hàng có thể nhằm mục đích kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Kể từ 15/3/2017 khi TT39/2016/NHNN [33] có hiệu lực thì hộ sản xuất, tổ hợp tác,… sẽ không đủ điều kiện để ký hợp đồng vay vốn, do vậy chủ yếu các khoản vay đối với các hộ sản xuất, tổ hợp tác sẽ được chuyển sang là khoản vay KHCN. Xét về xu hướng tác động từ văn bản pháp lý thì tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN tại các NHTM sẽ tăng lên.

Việc chuyển dịch cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng và thành phần kinh tế theo hướng tăng cho vay KHCN một mặt sẽ giúp Ngân hàng giảm rủi ro tập trung, mặt khác sẽ tạo cơ sở để Vietinbank có cơ hội bán chéo sản phẩm (tiền gửi, thanh toán, bảo hiểm, chứng khoán,...). Với tiềm năng dân số trẻ và thu nhập đầu người ngày càng cải thiện, cơ cấu tầng lớp trung lưu tăng lên thì việc hướng

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 14


đến các sản phẩm dịch vụ bán lẻ trở thành cuộc đua quyết liệt trong thời gian gần đây. Thực tế cho thấy, cho vay KHCN đã giúp NHTM tăng thu nhập vì xuất phát từ đặc điểm khi cho vay KHCN rủi ro sẽ cao hơn nhưng Ngân hàng sẽ tính được mức bù rủi ro vào chi phí khoản vay. Vietinbank cũng đang phát triển khách hàng bán lẻ với mục tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN là 25% tổng dư nợ. Tuy vậy, tỷ trọng dư nợ KHCN tại Vietinbank còn thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Còn nhiều trở ngại rất lớn hiện nay ở Việt Nam để người dân được tiếp cận với các khoản vay cá nhân làm cho thị trường tín dụng ngầm ngày càng phát triển mạnh và khó kiểm soát.

Trên thị trường với phân khúc bán lẻ dành cho KHCN, Vietinbank mới đang tập trung khai thác được nhóm khách hàng có thu nhập khá và bình dân, các khách hàng có thu nhập cao còn hạn chế (tại VCB hướng đến phân khúc KHCN có thu nhập cao) [90]. Để tăng tỷ trọng dư nợ cho vay KHCN tại mỗi khu vực hoạt động Ngân hàng cần có các sản phẩm cho vay phù hợp với từng phân khúc khách hàng. Cụ thể, với KHCN khu vực thành thị, Ngân hàng cần tích cực mở rộng những khách hàng có thu nhập ổn định có nhu cầu mua sắm, tiêu dùng cao, đồng thời bám sát nhu cầu mua nhà để ở, chính sách nhà ở cho người có thu nhập thấp để tăng dư nợ. Tại khi vực nông thôn, Ngân hàng cần đẩy mạnh cho vay cá nhân thực hiện CSTD phát triển NNoNT để tăng cường hỗ trợ vốn cho vay nông nghiệp. Cùng với đó, hình thức cho vay đối với KHCN cũng cần được áp dụng linh hoạt, có khách hàng cần tài sản đảm bảo mới được vay vốn nhưng có khách hàng cũng được vay tín chấp, đồng thời không áp dụng một khung lãi suất cố định mà lãi suất cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ rủi ro của khoản vay.

Theo số liệu từ NHNN đã có thông tin khoảng gần 30 triệu tài khoản KHCN [91], đây sẽ là cơ sở để Vietinbank thu thập đánh giá tình hình tài chính và nguồn trả nợ của KHCN. Quan sát thị trường thời gian qua thấy rằng, mặt bằng lãi suất cho vay thường xuyên được Vietinbank và các ngân hàng thông báo điều chỉnh giảm để chia sẻ khó khăn cùng khách hàng. Nhưng mức lãi suất giảm chỉ dành cho doanh nghiệp tốt, có dự án kinh doanh khả thi, song các đối tượng khách hàng này lại không có nhu cầu sử dụng vốn vay. Ngược lại, với KHCN có nhu cầu vay vốn vẫn phải chịu áp lực lãi suất không hề “dễ chịu”.


Chính vì vậy, Ngân hàng nên có chiến lược cạnh tranh về giá để phát triển cho vay đối với đối tượng này.

* Điều chỉnh cơ cấu cho vay theo thời hạn phù hợp với cơ cấu NVHĐ

Do TTCK Việt Nam chưa phát triển nên nguồn cung vốn chủ yếu vẫn từ kênh tín dụng ngân hàng. Khi nhu cầu vốn đầu tư, phát triển dài hạn của các doanh nghiệp tăng trong những năm gần đây, đã đẩy tỷ trọng dư nợ T-DH tại Vietinbank và các NHTM khác tăng mạnh. Trong điều kiện NVHĐ ngắn hạn là chủ yếu kéo theo rủi ro do chênh lệch kỳ hạn tăng cao. Đó là chưa tính đến dư nợ cho vay T-DH tập trung vào các lĩnh vực BĐS. Vietinbank cần điều chỉnh theo hướng giảm dư nợ cho vay T-DH cho phù hợp với cơ cấu TSN và gần lại với khẩu vị RRTD đã xây dựng.

(2) Chuyển dịch cơ cấu cho vay theo chiến lược tín dụng xanh

Với xu hướng phát triển ngân hàng xanh, trong cho vay Vietinbank cần hướng tới yêu cầu bảo đảm tính bền vững cho sản xuất kinh doanh. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nhiều nhất của biến đổi khí hậu, trong đó có một phần nguyên nhân từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã trở thành mục tiêu then chốt trong các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Dựa trên Quyết định 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2050 và định hướng tín dụng xanh của NHNN [91], Vietinbank cần tập trung nguồn lực để phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hướng tới bảo vệ môi trường và việc đầu tiên là triển khai áp dụng các nguyên tắc này trong mọi hoạt động của mình.

Theo báo cáo từ NHNN, tính đến cuối 2016, dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng 84.781 tỷ đồng (tăng 19,7% so với thời điểm cuối năm 2015; tăng 4,4% so với 30/9/2016), chiếm 1,5% so với tổng dư nợ toàn nền kinh tế, với khoảng 3,2 triệu hợp đồng tín dụng; dư nợ cho vay đã đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt khoảng 187.953 tỷ đồng với 129.083 hợp đồng tín dụng đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội [91]. Phát triển tín dụng xanh là yêu cầu để phát triển bền vững hoạt động ngân hàng. Do vậy, Vietinbank cần bổ sung tiêu chí về tác động môi trường trong việc phân loại các khách hàng, dự án vay vốn nhằm có đánh giá đúng đắn thực trạng tín dụng xanh tại Ngân hàng, trên cơ sở đó kết hợp


với định hướng của NHNN, xây dựng CSTD theo hướng bền vững. Việc hình thành bộ tiêu chí đánh giá tác động môi trường và kiện toàn bộ máy tổ chức có sự tư vấn chuyên sâu về môi trường là hoạt động rất cần thiết cho Ngân hàng. Hiện nay, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Cục Kinh tế liên bang Thụy sĩ đang rất tích cực hỗ trợ Chính phủ Việt Nam và các NHTM trong việc triển khai các chương trình, dự án cho vay có yếu tố bảo vệ môi trường. Tận dụng các cơ hội này, Ngân hàng có thể nắm bắt được hệ thống quy trình triển khai và các biện pháp quản trị đối với các khoản cho vay có tính đến yêu cầu này.

(3) Phát triển kênh phân phối sản phẩm cho vay trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại

Ngành ngân hàng là một trong số những ngành đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình hoạt động và quản lý. Nếu kênh phân phối truyền thống trong hoạt động cho vay của ngân hàng là thông qua quầy/ phòng giao dịch/ chi nhánh thì Ngân hàng cần chú trọng hơn trong việc thiết kế các sản phẩm phân phối qua các kênh mới trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin: như qua kênh internet banking, telephone banking,… nhất là các sản phẩm cho vay dành cho đối tượng KHCN. Kết hợp với bán chéo các sản phẩm : huy động vốn, bảo hiểm, thanh toán,… với cho vay để cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng. Khi phát triển qua kênh phân phối này về dài hạn góp phần đáng kể vào giảm chi phí phát sinh liên quan khoản vay, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay khách hàng. Tuy nhiên, khi cung cấp sản phẩm cho vay qua kênh mới này thì công tác quản trị, những điều kiện hỗ trợ cũng cần có những thay đổi phù hợp.

(4) Đa dạng hóa phương thức và sản phẩm cho vay

Để chuyển dịch cơ cấu danh mục theo định hướng và mục tiêu thiết lập, việc đa dạng hóa hình thức cấp tín dụng, đa dạng hóa sản phẩm cho vay là vô cùng quan trọng. Quy chế cho vay mới theo TT39/2016/NHNN, các phương thức cho vay của NHTM đối với khách hàng được quy định gồm: (i) cho vay từng lần, (ii) cho vay hợp vốn, (iii) cho vay lưu vụ, (iv) cho vay theo hạn mức, (v) cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng, (vi) cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán, (vii) cho vay quay vòng, (viii) cho vay tuần hoàn (rollover),

(ix) các phương thức cho vay khác được kết hợp 8 các phương thức cho vay nêu


trên, phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của TCTD và đặc điểm của khoản vay [33]. Qui định này là cơ sở để Vietinbank và các TCTD đa dạng hóa phương thức cho vay.

Hiện tại, phương thức cho vay chủ yếu tại Vietinbank là cho vay thông thường, các hình thức cấp tín dụng khác như: chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh chiếm tỷ trọng không đáng kể. Trong điều kiện hoạt động thương mại quốc tế mở rộng, nhu cầu tài trợ lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ tăng. Ngân hàng cần quan tâm khai thác, tìm kiếm khách hàng để mở rộng các hình thức cấp tín dụng khác đáp ứng nhu cầu xã hội, đồng thời góp phần tăng thu khai thác dịch vụ. Việc hoàn thiện các sản phẩm cho vay hiện có và phát triển các sản phẩm mới cần được quan tâm và thực hiện theo hướng sau:

- Tăng cường phát triển các sản phẩm tín dụng đối với KHCN vay tiêu dùng, qua đó từng bước giới thiệu các sản phẩm dịch vụ đi kèm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

- Tăng cường việc hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm và thông tin kịp thời cho khách hàng về những đổi mới của sản phẩm, nhất là những đổi mới có lợi cho khách hàng. Đi đôi với việc hoàn thiện sản phẩm, Ngân hàng cũng cần không ngừng nâng cao chất lượng của sản phẩm để duy trì khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm khách hàng mới.

Nhiệm vụ trước mắt là tích cực xây dựng và áp dụng các chính sách hữu hiệu trong việc tiếp thị và tìm kiếm khách hàng thuộc các thành phần kinh tế nhằm quảng bá hoạt động tín dụng và các sản phẩm dịch vụ tại Ngân hàng. Bên cạnh các sản phẩm cho vay hiện có, Ngân hàng cần nghiên cứu, triển khai các sản phẩm mới có khả năng chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng nhu cầu thiết thực của khách hàng, mở rộng quan hệ khách hàng mới cũng như các khách hàng quen thuộc có nhu cầu sử dụng sản phẩm.

(5) Tích cực chủ động xử lý và hạn chế nợ xấu

Nợ xấu của Vietinbank mặc dù đã được xử lý tích cực trong giai đoạn vừa qua duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp, nhưng nếu tính cả nợ xấu đã bán cho VAMC thì tỷ lệ nợ xấu còn cao. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn và ảnh hưởng xấu đến sự an toàn và ổn định của Ngân hàng. Những năm gần đây, dư nợ nhóm 4-5


tại Ngân hàng có xu hướng tăng cao, do vậy giải quyết nợ xấu hiện nay là nội dung vừa cấp bách, vừa khó khăn cần được đặt ở tầm chiến lược đối với Ngân hàng. Vietinbank cần chú trọng đến một số giải pháp sau:

- Một là, Ngân hàng rà soát và phân loại nợ theo đúng qui định nhằm minh bạch hóa thông tin tình hình nợ xấu:

Trên cơ sở rà soát lại từng khoản nợ, Ngân hàng cần minh bạch thực hiện phân loại nợ, theo đúng qui định của NHNN. Đây là cơ sở để Ngân hàng trích lập DPRR đúng, để có nguồn dự phòng xử lý tổn thất. Tiếp tục kiểm soát tỷ lệ nợ xấu dưới 3% trong những năm tiếp theo; đảm bảo các hệ số an toàn hoạt động theo qui định; Cần xác định số nợ có TSĐB và nợ không còn TSĐB, nợ có khả năng thu hồi và nợ không có khả năng thu hồi. Trong đó phân loại nợ tồn đọng do khách hàng đã giải thể, phá sản, mất tích không còn đối tượng thu; nợ thua lỗ do thay đổi cơ chế chính sách hoặc nguyên nhân bất khả kháng khác (đối tượng thu nợ đang tồn tại); đối tượng thu nợ liên quan đến vụ án để từ đó có giải pháp phù hợp.

- Hai là, tích cực xử lý nợ xấu bằng những biện pháp phù hợp với tình trạng và đặc thù của từng khoản nợ:

Ngân hàng cần phải có giải pháp cụ thể cho từng loại nợ xấu, từng loại doanh nghiệp để đảm bảo xử lý tốt nợ xấu. Theo đó, việc xử lý nợ xấu được thực hiện theo các giải pháp sau:

+ Đối với các khoản nợ xấu do nguyên nhân chủ quan như khách hàng vi phạm quy chế cho vay hay do khách hàng cố ý lừa đảo, chiếm dụng, sử dụng vốn sai mục đích nếu đã xác định rõ trách nhiệm và còn đầu mối để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì phải dùng mọi biện pháp như: cưỡng chế, phát mại tài sản, quy trách nhiệm bồi thường hoặc cần thiết đề nghị khởi tố trước pháp luật. Số nợ còn lại sau khi đã dùng mọi biện pháp xử lý thì sẽ xử lý từ nguồn DPRR hoặc bán nợ.

+ Nhóm nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, giải thể, phá sản, con nợ chết, mất tích,... không còn khả năng trả nợ thì sau khi đã tận thu, số còn lại xử lý bằng quỹ DPRR của Ngân hàng

+ Nhóm nợ quá hạn đã được Chính phủ, NHNN cho phép Vietinbank vay khoanh nợ, vay thanh toán công nợ, vay tái cấp vốn bù đắp cho nguồn cho vay chính sách do khách hàng là DNNN chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc thay đổi cơ


chế, chính sách, môi trường kinh doanh, các khoản cho vay phi thương mại dẫn đến không trả được nợ cho Ngân hàng thì đề nghị Nhà nước cấp nguồn xử lý.

+ Nhóm nợ xấu có TSĐB: Đây là các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản vì vậy Ngân hàng cần chủ động, tích cực xử lý phát mại và khai thác tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi vốn kinh doanh.

+ Các khoản nợ tồn đọng liên quan đến vụ án: Đối với nợ có TSĐB có khả năng thu hồi Ngân hàng cần có biện pháp tích cực bán tài sản hoặc khai thác nhằm nhanh chóng giải phóng vốn tồn đọng.

+ Đối với số nợ xấu đã bán cho VAMC:

Với cơ chế hiện nay, VAMC sẽ ủy quyền lại cho Ngân hàng để tiếp tục sử dụng các biện pháp thu hồi nợ. Như vậy, để xử lý nợ một cách thực chất thì Vietinbank cần tích cực, chủ động hơn nữa, phối hợp đề nghị các cơ quan liên quan trong việc xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng. Trên thị trường cuối năm 2016 Vietcombank đã mua lại toàn bộ số nợ 3.564 tỷ đồng xấu từ VAMC, tháng 3/2017 NHTMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) cũng mua lại 30% số nợ đã bán cho VAMC tương ứng với 1.336 tỷ đồng [PHỤ LỤC 08], [97].

Nợ xấu bán cho VAMC, Ngân hàng nhận về trái phiếu đặc biệt có thời hạn 5 năm. VietinBank bán nợ xấu cho VAMC làm 2 đợt, đợt 1 năm 2014, đợt 2 vào năm 2015. Như vậy, thời điểm đến hạn trái phiếu sẽ vào năm 2019-2020. Để xử lý thực chất nợ xấu, Vietinbank cũng đã có kế hoạch mua lại toàn bộ số nợ xấu từ VAMC bằng nguồn lực của Ngân hàng trong năm 2017-2018. Theo kế hoạch này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến đến lợi nhuận của Ngân hàng nhưng là cần thiết để Ngân hàng chủ động hơn trong xử lý nợ xấu.

+ Sau khi đã thực hiện các giải pháp trên, số nợ xấu còn lại sẽ sử dụng DPRR để xử lý tổn thất.

- Ba là, hạn chế tối đa các khoản nợ xấu phát sinh

Việc cơ cấu lại các khoản nợ tồn đọng là cần thiết nhưng mới chỉ giải quyết số nợ xấu đã phát sinh. Vấn đề đặt ra là phải có biện pháp ngăn chặn nợ xấu phát sinh trong tương lai. Trước mắt Vietinbank phải chủ động hạn chế nợ xấu thông qua việc nâng cao chất lượng quản trị điều hành, tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ, phát triển hệ thống QTRR và các chiến lược phát triển


kinh doanh, thủ tục cấp tín dụng theo hướng lành mạnh, thận trọng. Bên cạnh đó, cần chủ động phối hợp với khách hàng vay vốn để cơ cấu lại nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý nhằm giúp các doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm và giải quyết những khó khăn nhất thời trong kinh doanh. Việc này có thể khiến lợi nhuận của Ngân hàng giảm trong ngắn hạn nhưng đổi lại khi doanh nghiệp phục hồi sẽ tác động tích cực trở lại đối với các TCTD và bù đắp bằng lợi nhuận trong tương lai.

Để thực hiện các giải pháp trên, Vietinbank phải áp dụng một cách đầy đủ và triệt để các nội dung quy định tại TT02/2013/NHNN trong việc phân loại, trích lập và sử dụng DPRR, góp phần phản ánh chính xác, minh bạch hơn chất lượng cho vay và trích lập dự phòng tương ứng với mức độ rủi ro. Phân công trong Ban điều hành trực tiếp đôn đốc, chỉ đạo các Chi nhánh có nợ tồn đọng lớn, thành lập Ban xử lý nợ tại những Chi nhánh này, Giám đốc Chi nhánh là Trưởng ban. Bố trí nguồn nhân sự có kinh nghiệm, có trách nhiệm phụ trách công tác xử lý và thu hồi nợ và gắn trách nhiệm với kết quả thu hồi nợ. Xây dựng phương án xử lý nợ cụ thể đối với từng khoản nợ. Thực hiện rà soát, đánh giá lại đúng thực trạng khách hàng có nợ tồn đọng, tình hình tài chính, TSBĐ, nguồn thu nợ, khả năng thu nợ.

3.2.1.4. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu đầu tư tại Vietinbank

* Rà soát, cơ cấu lại hoạt động đầu tư của Ngân hàng, tăng vốn đầu tư cho các lĩnh vực có hiệu quả

Ngoài hoạt động NHTM, Vietinbank còn có các hoạt động khác như: ngân hàng đầu tư, dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh vàng bạc,… Thực tế những năm qua trong hoạt động của các NHTM đã cho thấy nhiều hệ lụy phát sinh từ việc đầu tư ngoài ngành dàn trải. Nhiều ngân hàng phải trả giá đắt từ việc quản lý lỏng lẻo các khoản đầu tư, sở hữu chéo,... Do vậy, Vietinbank cần thường xuyên tiến hành rà soát, củng cố các hoạt động kinh doanh chính; giảm các hoạt động kinh doanh ngoài ngành, tiềm ẩn nhiều rủi ro, không hiệu quả. Theo số liệu nghiên cứu và phân tích trong chương 2, một số lĩnh vực hoạt động của các công ty con có ROE cao gồm: Ngân hàng con tại Lào, công ty chuyển tiền Vietinbank - đây cũng là những lĩnh vực “lõi”, Ngân hàng xem xét tăng vốn đầu tư, mở rộng chi nhánh, mạng lưới hoạt động tại thị trường này cũng như


phát triển thêm một số thị trường các nước khác. Mở rộng quan hệ đại lý với các tổ chức tài chính nước ngoài, đẩy mạnh tiếp cận TTTC quốc tế và xúc tiến hiện diện thương mại của Ngân hàng tại các TTTC khu vực và quốc tế nhằm gia tăng mảng xuất khẩu dịch vụ tài chính.

Đối với các công ty con như: công ty CTTC Vietibank, công ty Chứng khoán Vietinbank, công ty quản lý quỹ, AMC Vietinbank cần tiến hành tái cơ cấu toàn diện hoạt động, tăng cường công tác quản trị điều hành và quản lý chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi hình thức sở hữu, củng cố hoạt động các công ty con theo hướng minh bạch, hiệu quả. Đối với hoạt động đầu tư CK đặc biệt là đầu tư trái phiếu tại Vietinbank mặc dù có phát sinh tổn thất nhưng đánh giá chung, chất lượng đầu tư trái phiếu của Ngân hàng từ năm 2013 đến nay được đánh giá rất tốt. Tuy nhiên, qui mô và tỷ trọng vốn đầu tư tài chính của Ngân hàng còn nhỏ bé. Tăng tỷ trọng vốn đầu tư tài chính là hướng đi phù hợp nhất là trong điều kiện TTTC phát triển. Qua đó, ngân hàng có thể dễ dàng điều chỉnh kỳ hạn TSC - TSN thông qua việc bán các CK trên thị trường để chuyển hóa kỳ hạn TSC cho phù hợp với cơ cấu TSN.

* Xây dựng và hoạch định chính sách quản lý cơ cấu danh mục đầu tư

Mặc dù đã có sự chú ý trong xây dựng chiến lược chung cho toàn bộ hoạt động, tuy nhiên tại Vietinbank cũng như các NHTM Việt Nam đến nay mới tập trung chủ yếu vào công tác quản trị hoạt động tín dụng, quản trị hoạt động đầu tư chưa được quan tâm thỏa đáng. Do vậy, để quá trình chuyển dịch cơ cấu danh mục đầu tư có hiệu quả, Ngân hàng cần tăng cường quản trị danh mục đầu tư chủ động. Một số nội dung giải pháp cần chú ý đó là:

- Xây dựng cơ cấu danh mục đầu tư theo hướng tối đa hóa khả năng sinh lời với mức rủi ro chấp nhận được, hỗ trợ nhu cầu thanh khoản. Xây dựng cơ cấu danh mục đầu tư đa dạng, bảo đảm tính linh hoạt, gắn với yêu cầu quản lý TSN - TSC của Ngân hàng. Lập ra các hạn mức phù hợp đối với từng loại rủi ro, từng dòng sản phẩm, từng bộ phận kinh doanh. Các hạn mức cơ bản gồm:

+ Hạn mức giao dịch với đối tác hoặc nhà phát hành CK: giúp Ngân hàng hạn chế được rủi ro trong trường hợp đối tác hoặc nhà phát hành không có khả năng thanh toán đối với giao dịch trái phiếu.


+ Hạn mức đầu tư: hạn mức này giúp ngân hàng có thể kiểm soát và hạn chế rủi ro tập trung cơ cấu đầu tư.

- Phát triển hoạt động đầu tư với từng bước đi thích hợp. Khai thác sản phẩm đầu tư truyền thống, áp dụng các sản phẩm đầu tư hiện đại nhất là trong bối cảnh TTCK phái sinh ở Việt Nam đã chính thức vận hành và đi vào hoạt động.

- Phát triển hoạt động đầu tư đi liền với yêu cầu đổi mới phương thức và kỹ thuật quản trị hiện đại. Đồng thời nhanh chóng áp dụng cá c công cụ phân tích sự biến động giá CK để đánh giá được mức độ rủi ro cơ cấu danh mục đang đầu tư, kinh doanh.

* Đa dạng hóa và hoàn thiện phương thức đầu tư

Sự đa dạng hóa phương thức đầu tư là một tiêu chí phản ánh sự phát triển hoạt động đầu tư. Ngân hàng có thể đầu tư với các phương thức và mục đích khác nhau. Có thể là nhằm hỗ trợ ngân quỹ hoặc sinh lời từ hưởng lãi hoặc hưởng chênh lệch giá hoặc với mục đích kiểm soát hoặc hoạt động tạo lập thị trường. Mỗi phương thức đầu tư đem lại các kết quả khác nhau và sử dụng các nguồn vốn có tính chất khác nhau,... Do vậy, trong quá trình thực hiện đầu tư, Ngân hàng cần phân định rõ mục đích, tính chất của khoản đầu tư từ đó có cơ chế sử dụng nguồn vốn, phân bổ vốn và quản lý một cách có hiệu quả.

Chẳng hạn, khi đầu tư với mục đích hỗ trợ thanh khoản, các CK lựa chọn phải có độ an toàn cao, khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh nhất với chi phí thấp nhất (chủ yếu đó là CK Chính phủ). Còn khi đầu tư với mục tiêu nắm quyền kiểm soát, ngân hàng phải nắm được lượng CK đủ lớn để nắm quyền kiểm soát hoạt động của công ty và định hướng hoạt động của công ty theo chủ đích của mình,...

* Phát triển đầu tư, kinh doanh các loại CK Nợ với lãi suất thả nổi do các tổ chức phát hành có độ tín nhiệm cao.

Những năm gần đây, Ngân hàng có xu hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư vào TPDN với lãi suất thả nổi, điều này hạn chế được những rủi ro về lãi suất. Với chiến lược đầu tư như vậy đã thể hiện sự chủ động của Vietinbank khác hẳn với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, để hoạt động đầu tư thực sự có hiệu quả, đòi hỏi công tác phân tích, đánh giá năng lực tài chính và năng lực hoạt động của nhà phát hành cần được chú trọng và tăng cường. Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa đến công tác QTRR hoạt động đầu tư kinh doanh CK. Bởi thực tế, khi Ngân hàng đầu


tư vào các loại CK Nợ thì không chỉ đối diện với tất cả các loại rủi ro phát sinh giống như hoạt động tín dụng mà còn đối diện trực tiếp với rủi ro thị trường.

Mặc dù theo số liệu báo cáo của Ngân hàng, không phát sinh nợ xấu trong hoạt động đầu tư trái phiếu, song với hoạt động kinh doanh CK trong đó có danh mục đầu tư vào các loại cổ phiếu đã chịu ảnh hưởng lớn từ những biến động trên TTCK thời gian qua. Nhiều cổ phiếu mà Ngân hàng đầu tư giá trị thị trường suy giảm, ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh. Do đó, nâng cao năng lực tự doanh của Ngân hàng là yêu cầu cần thiết để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư.

* Nâng cao vai trò cầu nối của công ty Chứng khoán Vietinbank và các công ty con của Ngân hàng

Hiện nay, Vietinbank và các NHTM tham gia vào TTCK chủ yếu thông qua công ty CK trực thuộc Ngân hàng. Thời gian tới công ty CK Vietinbank cần phát huy hơn nữa vai trò là cầu nối trung gian của mình giữa các nhà đầu tư với các doanh nghiệp góp phần tạo kênh huy động vốn có hiệu quả thông qua đẩy mạnh hơn nữa nghiệp vụ môi giới và bảo lãnh phát hành CK. Ngân hàng tăng cường bán chéo các sản phẩm nhằm, một mặt tăng tiện ích sản phẩm cho khách hàng mặt khác tăng thu nhập cho các công ty con. Sắp xếp, cấu trúc lại hoạt động các công ty con, tăng cường công tác kiểm soát nội bộ tại các công ty này

3.2.1.5. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn nhằm bảo đảm an toàn hoạt động theo thông lệ quốc tế.

* Điều chỉnh cơ cấu TSC rủi ro đảm bảo an toàn vốn theo chuẩn Basel II

Mặc dù hệ số CAR của Vietinbank trong giai đoạn đều vượt so với yêu cầu của NHNN, tuy nhiên nếu tính cả rủi ro thị trường, RRHĐ khi xác định giá trị TSC rủi ro của ngân hàng theo Basel II thì hệ số CAR của ngân hàng sẽ thấp hơn nhiều. Để triển khai Basel II, NHNN cũng đã ban hành TT41/2016/NHNN ngày 30/12/2016, dự kiến với Vietinbank sẽ có hiệu lực áp dụng từ năm 2018. Khi đó tác động lớn nhất là làm hệ số CAR của Ngân hàng giảm xuống2. Trong điều kiện năng lực về vốn còn hạn chế, bên cạnh yêu cầu cần tăng cường quản trị RRTD, RRHĐ và rủi ro thị trường thì một giải pháp quan trọng là Ngân


2 Theo nhiều nghiên cứu nếu tính thêm rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường CAR của NHTM giảm trung bình từ 1,5%-2%

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022