Thúc Đẩy Và Triển Khai Đồng Bộ Đề Án Tái Cơ Cấu Nền Kinh Tế


chủ thể trong nền kinh tế có kế hoạch trong việc đưa ra các quyết định đầu tư, tiêu dùng của mình.

3.3.1.3. Thúc đẩy và triển khai đồng bộ Đề án tái cơ cấu nền kinh tế

Các đề án đã được Chính phủ phê duyệt, tổ chức triển khai trong giai đoạn 2011-2020 bao gồm: Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 (QĐ254/QĐ-TTg), Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 (QĐ339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013) và Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD (QĐ843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013). Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD là một phần nội dung quan trọng của Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế và việc thực hiện thành công Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD sẽ đóng góp quan trọng vào hoàn thành các mục tiêu của Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế. Do vậy, cần thúc đẩy triển khai thực hiện một cách đồng bộ, góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính tại các NHTM Việt Nam, tác động tích cực đến việc định hướng phát triển, điều tiết của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank nói riêng, tại NHTM Việt Nam nói chung.

Mặt khác, hoạt động của các NHTM phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp trong nền kinh tế. Chính vì vậy, Chính phủ cần tích cực thực hiện tái cơ cấu các DNNN, các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước. Xây dựng cơ chế, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của hệ thống các doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Điều đó góp phần đảm bảo nguồn vốn tín dụng, đầu tư của Vietinbank và các NHTM vào các nền kinh tế an toàn và hiệu quả.

3.3.1.4. Hoàn thiện khung pháp lý

Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp lý, nhất là trong các lĩnh vực về bất động sản, quyền sử dụng đất..., để làm cơ sở thuận lợi cho việc bảo đảm tiền vay. Đối với những khoản vay có bảo đảm hoặc không có bảo đảm, khách hàng phải có trách nhiệm trả nợ đến cùng, nếu không trả được nợ, ngân hàng có quyền phát mại tài sản, kể cả những tài sản thuộc sở hữu của khách hàng nhưng không thế chấp tại ngân hàng nhằm thu hồi đủ vốn vay. Cần tránh hình sự hoá các giao dịch dân sự, nhất là đối với hoạt động ngân hàng khi cho vay có tổn thất nhưng do các nguyên nhân từ hành vi lừa đảo, chiếm đoạt vốn của bên vay vốn. Chính phủ chỉ đạo các Cơ quan tư pháp, các Bộ ngành tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp


lý trong xử lý tài sản đảm bảo, phá sản doanh nghiệp, đảm bảo quyền chủ động của TCTD trong việc xử lý các tài sản đảm bảo để giải phóng vốn tồn đọng,…

3.3.1.5. Tăng cường phối hợp hỗ trợ ngân hàng trong xử lý và thu hồi nợ xấu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Tòa án nhân dân tối cao tập trung giải quyết các vụ án tranh chấp liên quan đến hoạt động ngân hàng phù hợp với quy định về thủ tục tố tụng và quy định liên quan khác sau khi thụ lý vụ án. Chỉ đạo Viện kiểm soát nhân dân tối cáo tăng cường giám sát việc tuân thủ pháp luật của Tòa án và cơ quan thi hành án và có văn bản trả lời ngân hàng khi nhận đơn khiếu nại việc vi phạm pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án; đồng thời có văn bản gửi Tòa án, cơ quan thi hành án yêu cầu tuân thù pháp luật trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình

Chính phủ chỉ đạo Bộ Tư pháp và Tổng cục thi hành án dân sự thường xuyên phối hợp với các TCTD rà soát, tổng hợp các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án mà chưa được thi hành hoặc đang thi hành dở dang để có kế hoạch chỉ đạo cơ quan thi hành án địa phương đẩy nhanh các vụ án còn tồn đọng, góp phần thu hồi nợ cho các TCTD. Bên cạnh đó, Chính phủ và các Bộ ngành cần nâng cao năng lực điều hành vĩ mô, trong đó có năng lực giám sát, năng lực dự báo kinh tế: giúp các chủ thể kinh doanh trong đó có Ngân hàng có thể xây dựng được các chiến lược kinh doanh dài hạn, thuận lợi cho việc thực hiện tốt công tác quản trị danh mục tài sản theo phương pháp chủ động, duy trì sự ổn định, có thể đứng vững trước các tác động bất lợi của chu kỳ kinh tế. Bên cạnh đó, cần hình thành và duy trì thói quen minh bạch thông tin ở góc độ vĩ mô cũng như trong các ngành, các chủ thể kinh doanh, từng bước tạo dựng môi trường kinh tế xã hội lành mạnh, tạo sự tin tưởng cho giới kinh doanh, người dân cũng như các đối tác, các quốc gia có mối quan hệ với Việt Nam, khẳng định uy tín và thương hiệu quốc gia trong môi trường kinh doanh quốc tế.

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 16

3.3.1.6. Phát triển thị trường tài chính theo chiều sâu, tăng cường công tác thanh tra giám sát, đảm bảo tính minh bạch thông tin trên thị trường

Đặc điểm cơ bản trong kinh doanh ngân hàng là tài sản của ngân hàng chủ yếu là các tài sản tài chính. Chính vì vậy, cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng cơ bản sẽ phản ánh sự phát triển của TTTC mỗi quốc gia. Để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn nói chung, cơ cấu cho vay và đầu tư tại


Vietinbank, việc thúc đẩy sự phát triển của các bộ phận thị trường cấu thành trong TTTC là rất cần thiết. Theo đó :

- Phát triển và hoàn thiện TTTT theo xu hướng năng động, tích cực phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế. NHNN phát huy vai trò hướng dẫn thị trường, đẩy nhanh tiến độ hiện đại hệ thống thanh toán LNH, thanh toán bù trừ đồng thời cho phép các ngân hàng được áp dụng chứng từ điện tử trong giao dịch nhằm luân chuyển vốn nhanh giữa các ngân hàng trên TTTT;

- Phát triển TTCK: đến nay, quy mô thị TTCK Việt Nam còn rất nhỏ bé, các công cụ tài chính và phương thức giao dịch trên thị trường còn chưa phát triển. Do vậy, việc tạo ra cơ chế thúc đẩy sự phát triển của thị trường một mặt giúp NHTM đa dạng hóa các phương thức đầu tư, các công cụ bảo hiểm rủi ro trên thị trường. Mặt khác, giúp Ngân hàng có thể chuyển hóa dễ dàng các tài sản tài chính của mình ra thành tiền để hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết. Một số giải pháp cần quan tâm nhằm hỗ trợ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của Vietinbank và các NHTM Việt Nam đó là: (i) Thúc đẩy sự phát triển thị trường TPDN nhằm cân bằng cấu trúc thị trường trái phiếu; (ii) Đưa ra các cơ chế, biện pháp tăng cung sản phẩm có chất lượng trên thị trường song song với các biện pháp khuyến khích cầu đầu tư; (iii) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế hoạt động TTCK phái sinh.

- Phát triển thị trường mua bán nợ đặc biệt là thị trường mua bán nợ xấu:

+ Cần rà soát và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về mua bán nợ xấu, về quan hệ giữa công ty xử lý nợ xấu với các TCTD. Thậm chí, Nhà nước cũng nên sớm có các quy chế cho phép các công ty thu hồi nợ hoạt động;

+ Minh bạch thông tin về hàng hóa trên thị trường mua bán nợ xấu và phát triển các tổ chức trung gian cho hoạt động mua bán nợ xấu: bao gồm tổ chức tư vấn, định giá, dịch vụ quản lý - thu nợ, tổ chức định mức tín nhiệm. Để thị trường mua bán nợ xấu phát triển cần nhanh chóng gia tăng số lượng của nhà môi giới, nhà tư vấn đầu tư liên quan đến mua bán nợ xấu.

+ Nghiên cứu việc cho ra đời hoạt động của các công ty định giá có chức năng định giá độc lập các khoản nợ xấu như mô hình các công ty định giá hiện tại. Việc ra đời các công ty dạng này sẽ giúp cả bên mua nợ và bên bán nợ xấu có cơ sở để xem xét, quyết định việc mua bán và đảm bảo việc mua bán nợ xấu


được thực hiện khách quan;

+ Áp dụng các giải pháp nhằm “kích cầu” thị trường: theo đó cần phát triển các nhà đầu tư có tổ chức cho thị trường mua bán nợ xấu, cụ thể là các công ty quản lý quỹ, các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí… Đây là một trong các những thành viên tích cực của thị trường góp phần tăng tính thanh khoản của nợ xấu. Khác với các nhà tạo lập thị trường, các quỹ đầu tư sẽ tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ từ nhiều nhà đầu tư không chuyên nghiệp để đầu tư. Với định hướng hoạt động và chính sách đầu tư của mình, các tổ chức này sẽ là những nhà đầu tư tiềm năng và ổn định của thị trường mua bán nợ xấu; Mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực mua bán nợ xấu.

Cần mở rộng phạm vi và nâng cao vai trò các AMC của các NHTM: Hiện nay, các công ty mua bán nợ xấu do Nhà nước thành lập sẽ góp phần giúp tăng trưởng tín dụng thông qua việc làm sạch bảng tổng kết tài sản của ngân hàng và của doanh nghiệp, tạo điều kiện để hoạt động vay và cho vay dễ hơn. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ có tác dụng là đòn bẩy, không thể giải quyết nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong ngắn hạn cần có biện pháp phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động của các AMC của các ngân hàng trong đó có AMC của Vietinbank.

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

3.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho yêu cầu chuyển dịch và quản trị cơ cấu danh mục cho vay và đầu tư của ngân hàng.

Mặc dù thời kỳ qua, NHNN đã có nhiều nỗ lực, đưa ra một số văn bản nhằm giới hạn hoạt động cho vay trong một số ngành/lĩnh vực kinh tế, cũng như các văn bản qui định đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng, như các Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN, Quyết định số 03/2008/NHNN; Thông tư số 13/2010/NHNN; Thông tư 19/2010/NHNN, Thông tư số 36/2014/NHNN và Thông tư sô 06/2016/NHNN,… Tuy nhiên nội dung các qui định này chưa đầy đủ, thời điểm ban hành chậm trễ và thường mang tính thời điểm, nên có hiệu lực ngắn. Ngoại trừ qui định giới hạn cho vay hoặc bảo lãnh tối đa cho một khách hàng/một nhóm khách hàng có trên Luật TCTD, những giới hạn cụ thể hơn đối với dư nợ các


ngành, nhất là những ngành nhạy cảm hoàn toàn chưa được đề cập trong Luật. Vì vậy, thời gian tới, để hướng dẫn cho các NHTM thực hiện đa dạng hóa, tránh rủi ro tập trung tiềm ẩn trên DMCV, đầu tư, NHNN cần xây dựng các qui định chi tiết hơn, về mức đa dạng hóa danh mục, về giới hạn an toàn cho phép (tính trên dư nợ, qui mô vốn tự có của từng ngân hàng).

3.3.2.2. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát rủi ro các tổ chức tín dụng

Bên cạnh việc thanh tra tuân thủ để đánh giá việc chấp hành các quy định pháp luật của các TCTD, NHNN nên tăng cường công tác thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Khi thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro, Thanh tra NHNN có khả năng đánh giá tốt hơn năng lực quản lý của TCTD, tính chất phức tạp của hoạt động kinh doanh và những rủi ro mà TCTD gặp phải; tập trung tối đa nguồn lực để giải quyết các lĩnh vực có rủi ro cao nhất, làm lành mạnh hoá hoạt động của TCTD, góp phần ổn định hệ thống các TCTD.

Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu giám sát phù hợp theo hướng có thể đo lường, cảnh báo sớm những rủi ro của các TCTD. An toàn hoạt động của ngân hàng không chỉ mang tính độc lập mà có tính hệ thống, vì vậy hệ thống giám sát của NHNN phải kết hợp cả giám sát vi mô và giám sát vĩ mô. NHNN cần hoàn thiện báo cáo giám sát an toàn vĩ mô theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở phân tích một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và đánh giá mức độ chấp nhận rủi ro của hệ thống các TCTD

3.3.2.3. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê theo ngành kinh tế

Hệ thống ngành kinh tế quốc dân của Việt Nam (VSIC) được phân ngành từ năm 1993, đến năm 2007 thay đổi về cơ bản phù hợp với sự vận động, phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, sát với tiêu chuẩn quốc tế là chuẩn mực quan trọng trong các công tác thống kê, phân tích, đánh giá tình hình kinh tế - xã hội. Gần đây nhất là TT31/2013/TT-NHNN đã tham chiếu phân ngành kinh tế bao gồm 21 ngành. Tuy nhiên, thực tế triển khai hoạt động ngân hàng, các TCTD đang gặp một số vướng mắc dẫn đến những bất cập trong thực trạng phân bổ và QLRR tín dụng của các TCTD. Về phân bổ vốn theo ngành kinh tế, DMCV theo ngành trong các báo cáo hoạt động cho vay, báo cáo thường niên,… của các TCTD hiện nay đang rất khác nhau.Điều này không những ảnh hưởng đến công tác thống kê của NHNN mà còn khiến cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư rất khó


để so sánh hiệu quả hoạt động, danh mục đầu tư vốn,... của các NHTM. Điển hình như khi lập báo cáo thường niên, phần thuyết minh báo cáo là phần được quan tâm nhất thì các TCTD hiện nay đang phân tích dư nợ cho vay theo các tiêu chí về ngành nghề rất khác nhau. Như VietinBank và NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) thì thống kê dư nợ theo 21 ngành cấp 1, trong khi Vietcombank, NHTMCP Á Châu (ACB) lại chỉ thống kê đối với một số ngành nghề chính.

Do đó, NHNN cần có những nghiên cứu khảo sát dữ liệu cụ thể tại nơi có nguồn dữ liệu lớn, tập trung vốn của các TCTD từ đó làm căn cứ thống kê để đánh giá và đưa ra một qui định cụ thể hơn về phân ngành kinh tế cho các TCTD. Cần có những nghiên cứu cụ thể xuất phát từ cơ sở dữ liệu hiện có tại CIC để đưa ra quy định cụ thể rõ ràng hơn, thuyết phục các TCTD sử dụng đồng bộ hệ thống phân ngành kinh tế đối với hoạt động ngân hàng. Từ đây, các khái niệm, mã hoá đồng nhất về phân ngành kinh tế sẽ là giải pháp cho các TCTD có quy định thống nhất trong toàn hệ thống. Các TCTD cũng đồng thời cần có văn bản hướng dẫn chi tiết hơn để các chi nhánh chuẩn hóa trong cách hiểu và thực hiện nghiệp vụ phân tích và XHTDNB cũng như báo cáo thông tin tín dụng trong toàn bộ hệ thống.

3.3.2.4. Xây dựng và ban hành hệ thống pháp lý cho các công cụ tài chính phái sinh để Ngân hàng có thể sử dụng phổ biến trong điều chỉnh cơ cấu tài sản

- Chỉnh sửa quy chế mua bán nợ cho phù hợp thị trường để mở rộng hình thức này trong thời gian tới. Cụ thể cần có quy định cụ thể về mua bán nợ thông thường, không chỉ có nợ xấu, đồng thời không nên quy định giá tối thiểu giao dịch mà nên để giá hình thành từ thương lượng giữa người bán và người mua; Mặt khác cần mở rộng đối tượng tham gia vào mua bán nợ, nhất là các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư,…

- Xây dựng các quy định pháp lý cho thị trường các công cụ tài chính phái sinh

Để cho việc sử dụng các công cụ điều chỉnh cơ cấu cho vay, cơ cấu đầu tư thuận lợi, thì việc thiết lập một hành lang pháp lý từ phía Nhà nước là hết sức cần thiết. Đối với các công cụ chưa xuất hiện tại Việt Nam như phái sinh tín dụng, NHNN cần nghiên cứu kỹ lưỡng về việc áp dụng trong điều kiện Việt Nam. Bởi vì mặc dù có những ưu điểm phù hợp với một nền tài chính hiện đại


theo cơ chế mở, nhưng rõ ràng là các công cụ phái sinh cũng có những nhược điểm của nó, rất cần có một cơ chế giám sát hữu hiệu và một hành lang pháp lý chặt chẽ để phát triển. Theo đó:

(i) Cần xây dựng cơ chế hoạt động cho từng loại sản phẩm phái sinh áp dụng, điều này cũng có ý nghĩa chuẩn hóa giao dịch trên thị trường chính thức, tránh hiện tượng mỗi ngân hàng áp dụng một kiểu khác nhau do giao dịch trên thị trường phi chính thức (OTC);

(ii) Mở rộng phạm vi áp dụng công cụ hoán đổi RRTD cho các NHTM tham gia với tư cách người cung cấp sản phẩm. Điều này sẽ tránh được hiện tượng độc quyền về giá bán, bất lợi cho các chủ thể tham gia với vị trí là người mua. Mặt khác, cần khuyến khích các chủ thể ngoài ngân hàng tham gia, nhất là các công ty kinh doanh bảo hiểm với vai trò người bán bảo vệ;

(iii) Giới hạn mục đích tham gia của các NHTM là nhằm bảo hiểm rủi ro tín dụng/ mục đích phòng hộ, không nhằm mục đích đầu cơ. Do vậy, yêu cầu ngân hàng mua bảo hiểm phải sở hữu thực sự các khoản vay, không chấp nhận mua bán “khống” khoản vay không tồn tại trên danh mục. Điều này cũng có nghĩa là giới hạn phạm vi hoạt động của giao dịch phái sinh, “khoanh vùng” cho những hoạt động này để dễ đối phó khi thị trường giao dịch có những dấu hiệu không lành mạnh, tránh trường hợp hình thành một mạng lưới chằng chịt như thị trường Mỹ dẫn đến khó kiểm soát.

3.3.2.5. Củng cố và vận hành có hiệu quả hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước

Việc nâng cao chất lượng thông tin tín dụng tại CIC của NHNN, nhằm đáp ứng yêu cầu cập nhật thông tin chính xác về khách hàng có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản trị các hoạt động của Ngân hàng. Bản thân CIC phải có một hệ thống dữ liệu và công nghệ thông tin phục vụ cho quá trình thống kê và phân tích, dự báo của NHNN Việt Nam. Hiện tại trung tâm CIC trực thuộc NHNN chủ yếu xếp hạng ngân hàng và bước đầu đã cung cấp được các thông tin về độ tín nhiệm của tổ chức, các nhân. Tuy vậy, hoạt động này còn nhiều hạn chế, các thông tin về hạng tín nhiệm chủ yếu với các khách hàng đã từng phát sinh quan hệ vay vốn tại TCTD, còn các quan hệ thanh toán khác trong nền kinh tế CIC chưa thể thu thập và đánh giá được, chưa thỏa mãn nhu cầu xếp hạng và


cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho các NHTM khi phát triển thị trường các công cụ chuyển đổi. NHNN cần tăng cường phối hợp với các cơ quan, đơn vị,… cung cấp thông tin chéo để thu thập được hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác xếp hạng tín dụng nội bộ của các NHTM. Bên cạnh đó, cần phát triển các tổ chức xếp hạng đang hoạt động, này góp phần quan trọng trong cung cấp thông hạng tín nhiệm của các chủ thể trong nền kinh tế, phát huy tính độc lập trong đánh giá xếp hạng tín nhiệm các chủ thể giao dịch, các công cụ vay nợ cũng như các quốc gia khi TTTC trong nước hội nhập quốc tế. Đó là cơ sở để các NHTM đưa ra quyết định phân bổ, đầu tư vốn hợp lý.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Trên cơ sở lý luận ở Chương 1 và cơ sở thực tiễn trong Chương 2, Chương 3 của Luận án đã nêu ra một số giải pháp cho việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank. Những nội dung đã giải quyết trong Chương 3 gồm có:

Thứ nhất, quan điểm về việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank, Luận án đề ra các định hướng cụ thể cho chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank nhằm đạt mục tiêu kinh doanh của ngân hàng

Thứ hai, đề xuất các giải pháp tiếp tục chuyển dịch và nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn nói chung, cơ cấu cho vay và đầu tư nói riêng.

Thứ ba, đề xuất một số khuyến nghị với NHNN, kiến nghị với Chính phủ và Bộ, ngành liên quan nhằm hỗ trợ tạo điều kiện thúc đẩy và nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank nói riêng và tại các NHTM Việt Nam nói chung.


KẾT LUẬN


Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn nhằm tối ưu hóa tương quan lợi nhuận/rủi ro luôn là mục tiêu mà Vietinbank và các NHTM hướng tới. Tuy nhiên, đây là bài toán khó đối với các NHTM, đòi hỏi thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Luận án đã hoàn thành với các nội dung cơ bản sau:

- Một là, hệ thống hóa và hoàn thiện cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của NHTM; Tìm hiểu bài học kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại một số ngân hàng thương mại trong và ngoài nước từ đó rút ra bài học đối với Vietinbank;

- Hai là, nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại Vietinbank trong thời gian qua trên các tiêu chí qui mô và chất lượng. Trên cơ sở đó, đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó;

- Ba là, đề xuất hệ thống các giải pháp trực tiếp, các giải pháp hỗ trợ và một số kiến nghị góp phần chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo hướng hợp lý tại Vietinbank trong thời gian tới.

Với những nội dung cơ bản Luận án đã thực hiện, NCS hi vọng kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ có đóng góp nhất định trong việc hoàn thiện cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại NHTM và góp phần chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn theo hướng hợp lý tại Vietinbank nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung.

Để thực hiện luận án này, NCS đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của PGS,TS. Đinh Xuân Hạng và TS. Đàm Minh Đức, một số cán bộ quản lý của NHNN, Vietinbank và sự hỗ trợ của các anh/chị/em đồng nghiệp Bộ môn Nghiệp vụ Ngân hàng, Khoa Sau Đại học - Học viện Tài chính. Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt nên luận án không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. NCS mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà Khoa học, các nhà quản lý để luận án được hoàn thiện hơn.



DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ‌


1. Trần Thị Lan (2015), “Mua bán và sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số tháng 01/2015.

2. Tham gia đề tài NCKH cấp cơ sở năm 2015 “Hoàn thiện công cụ kế toán nhằm kiểm soát rủi ro tại các Quỹ tín dụng nhân dân”, chủ nhiệm đề tài TS. Trần Văn Hợi

3. Chủ nhiệm đề tài NCKH cấp cơ sở năm 2015 “Tăng cường tái cơ cấu tài chính của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

4. Thư ký đề tài NCKH cấp cơ sở năm 2015 “Hoàn thiện CSTD phục vụ phát triển NNoNT của NHNN Việt Nam”, Đề tài NCKH cấp cơ sở năm 2015, chủ nhiệm đề tài PGS,TS. Đinh Xuân Hạng.

5. Trần Thị Lan (2015),“Hiệu quả của chính sách tín dụng đối với DNNVV” Kỷ yếu Hội thảo khoa học giữa Học viện Tài chính & Viện Hàn Lâm Khoa học Việt Nam, NXB Tài chính Tháng 12/2015

6. PGS,TS. Đinh Xuân Hạng & Trần Thị Lan (2015),“Chính sách tín dụng đối với việc phát triển kinh tế Nông nghiệp, Nông thôn - Từ lý thuyết đến thực tiễn đổi mới và hoàn thiện ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học học phối hợp giữa Tạp chí Ngân hàng & Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, NXB Lao động tháng 12/2015

7. Trần Thị Lan (2016) “Thị trường mua bán nợ xấu ở Việt Nam - Thực trạng và một số đề xuất”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đại học Công đoàn tháng 4/2016

8. Trần Thị Lan (2016), “Phát triển thị trường mua bán nợ xấu - Giải pháp thúc đẩy tái cơ cấu NHTM ở Việt Nam”, Tạp chí Thanh tra Tài chính số 169 (T7/2016)

9. Trần Thị Lan (2016), “Vận dụng phương pháp véc tơ và phương pháp phân tích thành phần để đo lường qui mô chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn của Vietinbank”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, Số 156 (T7/2016).

10. Trần Thị Lan (2017),“Một số vướng mắc về cơ chế và khuyến nghị nhằm thúc đầy xử lý nợ xấu đã mua của công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học giữa NHNN Việt Nam và VAMC, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân tháng 1/2017


11. Trần Thị Lan (2017), “Trao đổi một số nội dung về kế toán cho vay của NHTM khi áp dụng quy chế mới về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng”, Tạp chí Thanh tra Tài chính Số 178 (4-2017)

12. Trần Thị Lan (2017), “Chuyển nợ xấu thành vốn góp - Biện pháp xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và những vướng mắc về pháp lý”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán số 05 (166) 2017.

13. Trần Thị Lan & Trần Cảnh Toàn (2017), “Xử lý nợ xấu và những vướng mắc khi triển khai mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Khoa Ngân hàng & Bảo hiểm, Học viện Tài chính tháng 9/2017.

14. Trần Thị Lan (2017), “Quản trị rủi ro tác nghiệp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Chủ nhiệm

15. Thư ký đề tài NHCH cấp cơ sở năm 2017, “Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô ở Việt Nam”, chủ nhiệm đề tài PGS,TS. Đinh Xuân Hạng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


TIẾNG VIỆT

[1]. Bùi Diệu Anh (2012)“Quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng Tp Hồ Chí Minh.

[2]. TS. Nguyễn Tuệ Anh và các cộng sự (2007), “Đánh giá đóng góp của các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tới tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam”, Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Kế hoạch & Đầu tư.

[3]. TS. Võ Thị Thúy Anh và các cộng sự (2014), Giáo trình Đầu tư Tài chính,

Nxb Tài chính, năm 2014.

[4]. Lê Xuân Bá và các cộng sự (2007), Các yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, Chương trình nghiên cứu thuộc Dự án MISPA - Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Hà Nội.

[5]. CIEM (2014), Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm vừa qua, Đề tài nghiên cứu của Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW, Bộ Kế hoạch & Đầu tư.

[6]. Chính phủ(2012), về việc phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011-2015, ban hành theo Quyết định 254/2012/QĐ-TTg

[7]. Đào Thị Chinh (2009), “Quản trị tài sản Có tại ngân hàng Công thương Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng.

[8]. Nguyễn Thùy Dương (2012) “Quản lý danh mục cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng

[9]. Nguyễn Thùy Dương và các cộng sự (2012), “Đánh giá thực trạng tín dụng ngân hàng thời gian qua. Định hướng và giải pháp điều hành cho giai đoạn từ nay đến năm 2015”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành, NHNN Việt Nam

[10]. PGS,TS. Lê Huy Đức (2003), Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế - xã hội,

NXB Thống kê, Hà Nội.

[11]. PGS,TS. Nguyễn Thu Hà (2013), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2013.

[12]. PGS,TS. Đinh Xuân Hạng & PGS,TS. Phạm Ngọc Dũng (2014), Giáo trình Tài chính - Tiền tệ, NXB Tài chính.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022