Sử Dụng Các Công Cụ Điều Chỉnh Cơ Cấu Cho Vay, Cơ Cấu Đầu Tư Một Cách Linh Hoạt Phù Hợp Với Điều Kiện Thực Tiễn .


hàng cần chuyển dịch cơ cấu TSC rủi ro, cơ cấu danh mục đầu tư góp vốn theo hướng an toàn, bền vững. Cụ thể với trong cơ cấu tài sản sẽ phải điều chỉnh cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng TSC hệ số rủi ro cao, đồng thời tính toán tăng tỷ trọng tài sản có khả năng sinh lời, có độ an toàn cao. Với yêu cầu này, theo hình thức sử dụng vốn sẽ điều chỉnh tăng tỷ trọng vốn đầu tư chứng khoán có độ an toàn cao, với hoạt động cho vay sẽ kiểm soát theo hướng giảm tỷ trọng dư nợ cho vay kinh doanh BĐS, kinh doanh CK, cho vay doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao (sử dụng đòn bẩy tài chính lớn, thiếu minh bạch…).

* Điều chỉnh cơ cấu tài sản nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản

Quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn chỉ được coi là hợp lý nếu đảm bảo thanh khoản. Theo đó, trước mắt Ngân hàng thực hiện:

+ Tuân thủ quy định của NHNN về các tỷ lệ đảm bảo khả năng chi trả như: tỷ lệ thanh toán ngay; tỷ lệ thanh toán 7 ngày; tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay T-DH; tỷ lệ cho vay trên huy động vốn tiền gửi (LDR).

+ Thực hiện tốt bộ chỉ số tuân thủ nội bộ theo mà Ngân hàng đã xây dựng và ban hành gồm: (i) các chỉ số đảm bảo thanh toán như: tỷ lệ dự trữ tiền mặt - chỉ số này nhằm đảm bảo ngân hàng dự trữ đủ lượng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của KHCN và KHDN; tỷ lệ tiền gửi dự trữ trên tài khoản NOSTRO - nhằm đảm bảo Ngân hàng duy trì đủ số dư trên tài khoản NOSTRO đáp ứng thanh toán với các TCTD khác; (ii) nhóm chỉ số thanh khoản gồm MCO (Maxium Cumulative Outflows) - nhằm đảm bảo đủ khả năng thanh khoản để đáp ứng dòng tiền chênh lệch vào - ra lũy kế theo từng kỳ hạn; Chỉ số LCR (Liquidity Coverage Ratio) - nhằm đảm bảo duy trì đủ lượng TSC thanh khoản cao để thanh toán cho các nghĩa vụ nợ đến hạn trong 30 ngày tới trong điều kiện khủng hoảng thanh khoản (Tress scenario); Bên cạnh đó còn có nhóm chỉ số tài trợ nguồn phản ánh tương quan giữa qui mô NVHĐ và cho vay như: tỷ lệ dư nợ/tiền gửi của dân cư và doanh nghiệp ; tỷ lệ dư nợ /tổng nguồn ổn định NSFR (Net Stable Funding Ratio) - chỉ số này nhằm đảm bảo Ngân hàng có đủ nguồn vốn ổn định để tài trợ cho các tài sản dài hạn. Trong các chỉ số trên, thì LCR và NSFR mặc dù Ngân hàng đã ban hành trong quy định quản lý RRTK năm 2013


nhưng chưa áp dụng trong thực tế. Thời gian tới để đánh giá chính xác hơn RRTK thì việc tính toán các chỉ số này là cần thiết.

Hiện tại Vietinbank cũng mới sử dụng phương pháp đo lường RRTK tiếp cận dựa theo các chỉ số thanh khoản và đã xây dựng kịch bản thử sức chịu đựng thanh khoản với kỳ hạn sử dụng để đánh giá căng thẳng thanh khoản tuy nhiên chưa áp dụng trên thực tế. Xây dựng các kịch bản có thể xảy ra đối với vấn đề thanh khoản của Ngân hàng, đặc biệt tình huống khi cung thanh khoản của các NHTM bị sụt giảm mạnh, trong khi cầu thanh khoản tăng cao. Từ những kịch bản, Ngân hàng đưa ra các phương án xử lý, bảo đảm khả năng chi trả, khả năng thanh khoản trong trường hợp xảy ra thiếu hụt tạm thời khả năng chi trả, cũng như trong trường hợp khủng hoảng về thanh khoản. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần tăng cường dự trữ bằng việc nắm giữ các GTCG có tính lỏng cao để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản khi cần.

3.2.1.6. Sử dụng các công cụ điều chỉnh cơ cấu cho vay, cơ cấu đầu tư một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.

Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cho vay và đầu tư theo phương thức chủ động đòi hỏi Ngân hàng cần sử dụng linh hoạt các công cụ điều chỉnh cơ cấu danh mục cho phù hợp với yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Với danh mục đầu tư tài chính, do đặc thù tính lỏng cao nên Ngân hàng dễ dàng điều chỉnh thông qua các giao dịch trên thị trường thì với DMCV việc áp dụng các biện pháp linh hoạt cần được chú trọng. Bên cạnh những biện pháp/công cụ truyền thống mà Ngân hàng vẫn thực hiện như thời gian qua (điều chỉnh tăng dư nợ/giá trị đầu tư, đôn đốc thu nợ, hoặc một số các biện pháp kỹ thuật khác) thì thời gian tới Ngân hàng cần quan tâm nhiều hơn đến một số công cụ hiện đại sau khi cơ chế TTTC cho phép:

- Đối với công cụ mua bán nợ:

Chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam - 15

Mua bán nợ được xem là công cụ để điều chỉnh cơ cấu cho vay và hiện tại ở Việt Nam đã có hành lang pháp lý cho việc mua bán nợ. Tuy nhiên, do còn nhiều tồn tại nên quy chế này chưa được phát huy. Để khắc phục được những tồn tại này và đưa mua bán nợ thành công cụ phổ biến hơn, Vietinbank cần quan tâm tới những vấn đề sau: (i) Trên cơ sở quy chế mua bán nợ do NHNN đã sửa đổi,


Ngân hàng cần tìm hiểu để áp dụng phù hợp với mục đích của mình. Cần thay đổi quan niệm hiện tại là chỉ các khoản nợ xấu mới đem ra trao đổi mà nên sử dụng mua bán nợ như là công cụ để thay đổi linh hoạt cơ cấu danh mục, tăng/giảm qui mô dư nợ khi cần thiết; (ii) Củng cố lại chức năng, nhiệm vụ của AMC Vietinbank. Khi hành lang pháp lý cho phép, hoạt động của công ty này không chỉ giới hạn trong xử lý tài sản liên quan đến nợ tồn đọng mà rộng hơn có thể đại diện cho Ngân hàng tham gia đàm phán, thương lượng liên quan đến việc mua bán các tài sản của Ngân hàng. Vì vậy, cần phải củng cố và nâng cao tính chuyên nghiệp của các công ty này.

- Đối với công cụ chứng khoán hóa khoản vay

Chứng khoán hóa khoản vay là công cụ sử dụng để chuyển giao RRTD từ ngân hàng cho vay sang các nhà đầu tư, những người bỏ tiền ra mua CK. Hoạt động chuyển gia này tiến hành thông qua tổ chức trung gian phát hành CK ra thị trường trên cơ sở các khoản cho vay của Ngân hàng. Ở Mỹ thường thành lập một tổ chức chuyên biệt để đảm nhận vai trò này gọi là tổ chức mục đích đặc biệt. Trong điều kiện hiện tại của Vietinbank hiện nay không nhất thiết phải thành lập tổ chức này mà có thể do công ty CK Vietinbank, hoặc công ty AMC Vietinbank thực hiện. Về cơ chế hoạt động, bước đầu chỉ nên áp dụng theo mô hình truyền thống, nghĩa là CK hóa theo cơ chế chuyển giao. Áp dụng cơ chế này, công ty CK Vietinbank nhận chuyển giao quyền sở hữu khoản vay từ ngân hàng mẹ, sau đó thực hiện phát hành các loại CK/trái phiếu có cùng hạng. Tuy nhiên, để phát hành trái phiếu dựa trên các khoản vay, ngoài việc tăng mức vốn tự có, công ty phát hành còn phải thực hiện ký quỹ đầy đủ tại tổ chức bảo lãnh.

- Đối với công cụ hoán đổi RRTD

Đây là công cụ phái sinh cung cấp cho các nhà quản lý DMCV một con đường mới trong việc điều chỉnh DMCV. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới liên quan đến các công cụ hoán đổi RRTD thời gian qua, khi áp dụng công cụ này cần lưu ý: Bước đầu nên áp dụng hoán đổi RRTD cho các khoản cho vay có giá trị lớn trên danh mục (chỉ liên quan đến một chủ thể vay và có tài sản bảo đảm), sau đó tiến tới áp dụng cho DMCV tiêu dùng; Hợp đồng giao dịch cần phải được chuẩn hóa, các qui định cần cụ thể và chặt chẽ, nhất là các sự kiện rủi ro có liên quan đến biến cố chi trả bảo hiểm cần phải


xác định rõ phạm vi, giới hạn trả tiền và các trường hợp loại trừ. Tránh trường hợp quy định không rõ ràng dẫn đến tranh chấp giữa người tham gia bảo hiểm và công ty chi trả tiền bảo hiểm.

3.2.2. Các giải pháp hỗ trợ

3.2.2.1. Tăng cường khả năng phân tích, dự báo biến động của thị trường

Đặc thù hoạt động kinh doanh ngân hàng là rủi ro lớn lại phụ thuộc rất lớn vào các khách hàng/đối tác của NHTM. Do vậy, tăng cường khả năng dự báo, phân tích thị trường là giải pháp quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt động sử dụng vốn nói riêng. Nếu thông tin dự báo chính xác, Ngân hàng sẽ có căn cứ để thiết lập cơ cấu danh mục sử dụng vốn phù hợp.

Khả năng phân tích xu hướng thị trường không chỉ dừng lại ở những giao dịch liên quan trực tiếp đến TSN-TSC của Ngân hàng mà còn thể hiện ở việc nắm bắt xu hướng phát triển của ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm trong nền kinh tế. Đây chính là cơ sở để Ngân hàng xây dựng và thực thi chính sách cho vay, chính sách đầu tư và xây dựng cơ cấu cho vay, đầu tư mục tiêu. Để tăng cường được sự đánh giá về tình hình thị trường, của lãi suất, tỷ giá,... Ngân hàng cần có một bộ phận độc lập chuyên thu thập, sàng lọc phân tích các tin tức trên thị trường rồi từ đó đưa các nhận định về thị trường. Phòng/bộ phận này có thể đăng tải các nhận định của mình cho các đơn vị kinh doanh làm cơ sở tham khảo ra các quyết định kinh doanh.

3.2.2.2. Tăng cường năng lực về vốn chủ sở hữu và cải thiện cơ cấu nguồn vốn, tăng tính ổn định nguồn vốn huy động

* Tăng cường năng lực về vốn chủ sở hữu

Ngân hàng cần xác định nhu cầu và có kế hoạch trung dài hạn cũng như hàng năm về VCSH gắn với mục tiêu tăng trưởng TSC và tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực quốc tế. Để đáp ứng tỷ lệ CAR theo qui định của Basel II thì nhu cầu tăng vốn của Ngân hàng là rất cấp thiết. Hiện nay dư địa tăng vốn của VietinBank tương đối hạn chế do tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại Ngân hàng đã chạm ngưỡng tối thiểu (đang là 64,46%) theo qui định của Chính phủ. Dư địa để tăng vốn từ nhà đầu tư nước ngoài đối với Vietinbank không còn (do đã tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoai tại Ngân hàng đã gần giới hạn 30%). Khả năng tăng vốn


từ NSNN để tăng vốn cấp 1 sẽ khó khăn để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng tài sản tăng thì việc tăng qui mô vốn tự có của Ngân hàng lại tiếp tục phải tính đến phương án tăng vốn góp từ các cổ đông hiện hữu, từ cổ tức hàng năm. Cũng với đó, thực hiện phát hành trái phiếu dài hạn để tăng qui mô vốn cấp 2. Hiện tại tỷ lệ vốn cấp 2/cấp 1 hiện gần 40% (mức tối đa là 50%) do vậy Ngân hàng vẫn có thể thực hiện tăng qui mô phát hành trái phiếu thứ cấp để tăng vốn cấp 2. Trong thời gian những năm sắp tới vẫn đề nghị Chính phủ và các cổ đông chấp thuận việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu thay vì chi trả cổ phiếu bằng tiền mặt nhằm giữ lại lợi nhuận hàng năm để tái đầu tư, tăng qui mô vốn và hiệu quả kinh doanh.

* Cải thiện cơ cấu nguồn vốn, tăng tính ổn định nguồn vốn huy động

Xuất phát từ đặc điểm cơ bản trong hoạt động ngân hàng - nguồn vốn kinh doanh của NHTM chủ yếu là NVHĐ. Do vậy, các quyết định liên quan đến phân bổ vốn vào các hoạt động với tỷ trọng bao nhiêu phải phù hợp với cơ cấu NVHĐ. Nếu NHTM duy trì cơ cấu sử dụng vốn và nguồn vốn bất cân xứng về kỳ hạn thì phải chịu những RRLS trong việc tái tài trợ tài sản và nguồn vốn hoặc RRLS do giá trị của tài sản thay đổi khi lãi suất thị trường biến động, ngoài ra Ngân hàng sẽ đối diện với RRTK - loại rủi ro nguy hiểm nhất trong kinh doanh. Hiện nay, Vietinbank cũng như các NHTM Việt Nam nói chung NVHĐ chủ yếu là ngắn hạn. Trong khi đó, tỷ trọng dư nợ T-DH tại Ngân hàng có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây tiềm ẩn RRTK do bất cân xứng về kỳ hạn giữa TSC và TSN. Do vậy, để đảm bảo an toàn trong hoạt động, đồng thời đáp ứng được nhu cầu vốn T-DH của nền kinh tế thì Ngân hàng cần tăng tỷ trọng nguồn vốn T-DH nhằm tăng tính ổn định của nguồn vốn. Theo đó:

- Đảm bảo sự phù hợp giữa qui mô, tốc độ tăng trưởng NVHĐ và qui mô, tốc độ tăng trưởng cho vay. Mục tiêu huy động vốn phải nhằm mục tiêu trước hết là thỏa mãn nhu cầu đầu tư và cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng phải có những biện pháp phù hợp khai thác NVHĐ để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn, duy trì sự ổn định về tốc độ tăng trưởng NVHĐ. Tránh tình trạng bất ổn định về tăng trưởng NVHĐ có thể gây nên khó khăn cho việc dự báo và quản lý trạng thái thanh khoản.

- Đa dạng hoá các hình thức, các sản phẩm huy động vốn, xây dựng


chwinhs sách lãi suất hợp lý bảo đảm tính cạnh tranh nhằm thu hút và tăng cường nguồn vốn huy động kỳ hạn dài có tính ổn định cao. Đặc biệt là nguồn vons tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Áp dụng các hình thức huy động vốn hấp dẫn như: huy động tiết kiệm, kỳ phiếu có quay số mở thưởng, tiết kiệm bậc thang,… Cần điều chỉnh chênh lệch lãi suất giữa tiền gửi ngắn hạn với tiền gửi dài hạn. Bên cạnh đó, cân đối giữa khà năng huy động tiền gửi dự tính với nhu cầu vốn vay trung dài hạn để phát hành các loại GTCG: chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu T-DH.

- Tiếp tục đẩy mạnh mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, coi đây là giải pháp quan trọng tạo ra nguồn vốn có lợi nhất cho Ngân hàng và xã hội. Cải tiến các hình thức thanh toán truyền thống hiện nay đi đôi với áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động thanh toán; Tăng cường quan hệ quốc tế với các ngân hàng đại lý để tranh thủ thêm nguồn vốn từ bên ngoài.

3.2.2.3. Hoàn thiện hệ thống XHTDNB, xây dựng và áp dụng các công cụ đo lường rủi ro danh mục cho vay, danh mục đầu tư theo thông lệ quốc tế.

Hệ thống XHTDNB là một trong ba phương pháp đánh giá RRTD mà Ủy ban Basel khuyến khích các NHTM áp dụng và hệ thống XHTDNB mà NHNN Việt Nam qui định các NHTM thực hiện chính là nhằm tuân thủ theo yêu cầu này. Bước thay đổi đáng kể là Ngân hàng đã áp dụng hệ thống XHTDNB theo phương pháp thống kê thay phương pháp chuyên gia từ cuối 2015. Tuy nhiên, về mặt dài hạn Ngân hàng tiếp tục hoàn thiện hệ thống XHTDNB trên cơ sở áp dụng các mô hình định lượng. Nhằm tận dụng được hết những ưu việt mà hệ thống này mang lại cho công tác quản lý hoạt động cho vay, đặc biệt là những ưu thế của hệ thống XHTDNB trong quản lý cơ cấu cho vay, đầu tư tài chính. Cụ thể là:

- Trên cơ sở mức tín nhiệm của người vay/tổ chức phát hành là căn cứ để xác định giới hạn cho vay và giới hạn đầu tư:

Ngân hàng cần phải qui định rõ các giới hạn an toàn trong cho vay đối với từng hạng khách hàng/nhà phát hành CK Nợ, theo nguyên tắc hạng khách hàng/tổ chức phát hành càng cao thì mức cho vay/đầu tư sẽ cao và ngược lại. Đây thực chất là cụ thể hóa mức cho vay tối đa trên cơ sở giới hạn cấp tín dụng đang được quy định trong Luật TCTD hiện tại. Việc xây dựng các giới hạn này là để hình thành căn cứ cho quá trình giám sát thực hiện DMCV/đầu tư, hạn chế rủi ro.


- Khai thác tính năng của hệ thống XHTDNB mới trong định giá:

Một trong những khâu quan trọng trong hoạt động cho vay đối với các tổ chức kinh tế - tài chính cũng như đối với KHCN là định giá khoản cho vay/đầu tư. Lãi suất kinh doanh cần phải đặt ở mức hợp lý so với mặt bằng lãi suất thị trường, cũng như để tạo dựng lợi thế cạnh tranh so với ngân hàng đối thủ hay duy trì và ổn định mối quan hệ với khách hàng vay vốn. Khi cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng càng gay gắt thì Ngân hàng chỉ có thể đóng vai trò là người chấp nhận giá mà dần bỏ qua vai trò là người đặt giá. Chính vì vậy, định giá chính xác các khoản vay ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.

Thực tế cho thấy, việc lựa chọn phương pháp xác định lãi suất cho vay phụ thuộc hoàn toàn ý muốn chủ quan của mỗi ngân hàng. Mọi phương pháp đều có sự cấu tạo bởi nhiều thành phần khác nhau (như lãi suất huy động, chi phí quản lý, lợi nhuận kỳ vọng…) nhưng tất cả đều phải có phần bù rủi ro liên quan đến khoản vay. Phần bù rủi ro lớn hay nhỏ phụ thuộc vào quá trình thẩm định khách hàng vay vốn, lịch sử giao dịch cho vay và kết quả đánh giá của hệ thống XHTDNB. Tuy nhiên, các bước của quá trình thẩm định khách hàng và lịch sử giao dịch cho vay chỉ mới xác định về quyết định cấp tín dụng lẫn sự đánh giá sơ bộ về rủi ro, chứ chưa định rõ về mức phần trăm rủi ro gặp phải khi tiến hành cho vay vốn. Chính vì vậy, hệ thống XHTDNB được chuẩn hóa và ứng dụng rộng rãi trong hệ thống NHTM trên thế giới để lượng hóa mức độ rủi ro thành tỷ lệ phần trăm phần bù rủi ro trong ấn định lãi suất cho vay.

Với hệ thống này, Ngân hàng sẽ lượng hóa các bộ chỉ tiêu định lượng và định tính về khách hàng để đưa ra hạng tín dụng. Tương ứng mỗi hạng tín dụng sẽ có xác suất xảy ra rủi ro khác nhau, theo đó các xác suất xảy ra rủi ro khác nhau sẽ có phần trăm phần bù rủi ro khác nhau trong lãi suất cho vay. Bên cạnh đó, cần bổ sung đánh giá độ rủi ro của tài sản đảm bảo trong định giá khoản vay dựa trên hệ thống XHTDNB, điều này sẽ giúp nhận diện: (i) Nếu khách hàng có mức độ tổn thất dự kiến cao hơn sẽ có hạng tín dụng thấp hơn, loại tài sản chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro (hàng tồn kho cố định, hàng tồn kho luân chuyển, khoản phải thu…), cơ cấu của danh mục TSĐB ít hấp dẫn hơn, tỷ lệ cho vay trên giá trị đảm bảo thấp hơn; (ii) Nếu khách hàng có mức độ tổn thất dự kiến ít hơn sẽ


ngược lại trường hợp trên. Ngoài ra, nhóm khách hàng này còn phải có cơ cấu danh mục TSĐB hấp dẫn hơn.

- Dựa trên các kết quả của hệ thống XHTDNB, Ngân hàng có thể tính chính xác mức độ tổn thất kỳ vọng (EL) theo công thức của Ủy ban Basel. Căn cứ vào giá trị EL tính được, Ngân hàng sẽ trích lập dự phòng cho những tổn thất dự kiến được. Kết quả của hệ thống XHTDNB cung cấp những dữ liệu quan trọng (như PD, LGD) để Ngân hàng xây dựng mô hình đo lường rủi ro DMCV.

3.2.2.4. Thực hiện thoái thu lãi của các khoản nợ xấu phù hợp cơ chế tài chính

Một trong những vấn đề nổi lên trong những năm qua không chỉ tại Vietinbank mà còn ở tất cả các NHTM Việt Nam đó là tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng tài sản có sinh lời của Ngân hàng có xu hướng tăng cao. Thực trạng đó phản ánh những tổn tại khó khăn trong hoạt động tín dụng và những bất cập trong phân loại nợ tại Ngân hàng hiện nay. Theo đó, khi thực hiện quy định của NHNN, các NHTM được phép cơ cấu lại nợ cho khách hàng mà không phải chuyển nhóm nợ đối với những vay của khách hàng mà NHTM đánh giá khách hàng có khả năng trả được nợ đúng hạn theo thời gian cơ cấu lại. Chính vì vậy, số liệu phân loại nợ đã không phản ánh chính xác thông tin chất lượng nợ tại Ngân hàng: dư nợ nhóm 1 cao hơn nhiều so với thực tế. Trong khi đó, khi ngân hàng áp dụng nguyên tắc cơ sở dồn tích trong kế toán và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 14), thì Ngân hàng thực hiện dự thu lãi đối với nợ nhóm 1. Từ đó là thu nhập lãi tăng, lợi nhuận tăng, kéo theo các khoản lãi phải thu tăng lên. Với thực trạng này, hệ lụy là thông tin về lợi nhuận của ngân hàng sẽ không phản ánh rõ kết quả kinh doanh thực chất.

3.2.2.5. Nâng cao năng lực quản trị ngân hàng đặc biệt là quản trị rủi ro

Năng lực quản trị, điều hành đặc biệt là năng lực quản trị nội bộ là yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong kinh doanh ngân hàng. Với yêu cầu trong hoạt động đòi hỏi Ngân hàng cần nâng cao năng lực quản trị hơn nữa. Cụ thể: Ngân hàng cần hoàn thiện mô hình tổ chức theo mô hình tập trung, hướng khách hàng, các khối kinh doanh sẽ được tổ chức lại theo nhóm khách hàng. Các chức năng quản trị và tác nghiệp được tập trung triệt để tại TSC, các Chi nhánh chỉ tập trung cho công tác bán hàng. Mô hình khối theo nhóm khách hàng và theo chức năng cần được thiết lập một cách thống nhất. Theo đó, Ngân hàng sẽ có các khối


kinh doanh chính là: khối bán buôn, khối bán lẻ, khối kinh doanh vốn; các khối chức năng gồm: QTRR, tác nghiệp, tài chính, hỗ trợ. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần rà soát chuẩn hóa chức năng nhiệm vụ các phòng tại Trụ sở chính, sắp xếp lại theo đúng khối chức năng, phân định rõ nhiệm vụ, tránh chồng chéo. Sắp xếp các phòng tại Chi nhánh theo các chức năng chuẩn thuộc từng nhóm: bán hàng, dịch vụ khách hàng và hỗ trợ.

Xây dựng, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và phân định trách nhiệm cụ thể về quản trị của từng đơn vị, cá nhân trong hệ thống QTRR, quản trị điều hành của Ngân hàng. Đồng thời, cần hoàn thiện hoạt động của các Uỷ ban và nâng cao vai trò tham mưu, tư vấn chính sách của các Ủy ban này. Tạo ra thiết chế minh bạch về chức năng, nhiệm vụ giữa HĐQT, Ban Kiểm soát và Ban điều hành. Tăng cường hiệu lực quản lý của HĐQT, xác định rõ hơn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của HĐQT phù hợp với Luật các TCTD. Bên cạnh đó, nâng cao năng lực tổ chức điều hành kinh doanh, phân định rõ chức năng của Trụ sở chính và Chi nhánh. Củng cố chức năng, tăng cường vai trò của bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ.

Vietinbank cần tiếp tục nâng cao năng lực QTRR, phải bảo đảm xây dựng công tác QTRR cả về yếu tố định lượng và định tính, trong đó cần phải có các yếu tố sau:

Thứ nhất, xây dựng đầy đủ khung QTRR và chiến lược QTRR hiệu quả. Theo đó, cần thiết lập cơ cấu QTRR hiệu quả với sự quan tâm của HĐQT và Ban điều hành, bảo đảm chức năng giám sát đầy đủ các mục tiêu quản trị. Trong đó, nhấn mạnh đến vai trò và trách nhiệm của từng thành viên trong quá trình giám sát và QTRR, kể cả vai trò và trách nhiệm của Kiểm toán nội bộ trong quá trình đánh giá độc lập hệ thống QTRR ngân hàng.

Xây dựng và truyền thông văn hóa rủi ro trên cả hệ thống. Việc truyền thông văn hóa rủi ro phải bảo đảm đến được từng cán bộ nhân viên và ý thức của nhân viên về rủi ro đối với nghiệp vụ kinh doanh đang thực hiện. Xây dựng khung QTRR tổng thể và cụ thể đối với từng loại rủi ro. Ngân hàng cần phải được trang bị phương pháp luận về QLRR đối với từng loại rủi ro cụ thể để có thể tổ chức về mặt dữ liệu, công nghệ,… đáp ứng cho quá trình đánh giá, đo lường rủi ro. Khi rủi ro đã được đánh giá và đo lường đầy đủ, ngân hàng có thể đưa ra các chiến lược


QTRR phù hợp với chiến lược kinh doanh và khẩu vị chấp nhận rủi ro của lãnh đạo ngân hàng.

Thứ hai, xây dựng chính sách, quy trình và các công cụ/phương pháp QLRR. Chính sách QLRR được xây dựng trên cơ sở chiến lược QLRR và phải có được phương pháp QLRR đối với từng loại rủi ro trọng yếu hoặc được ngân hàng đánh giá là trọng yếu.

Thứ ba, thực hiện phân bổ vốn hợp lý. Cần thực hiện tính toán vốn cho từng loại rủi ro, so sánh với yêu cầu vốn tối thiểu để bảo đảm hoạt động ngân hàng luôn tuân thủ các quy định của NHNN và nằm trong mức an toàn hợp lý. Đồng thời, xây dựng kế hoạch về vốn phù hợp với chiến lược kinh doanh và khẩu vị rủi ro của ngân hàng trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng.

Thứ tư, bảo đảm nguồn lực, hệ thống thông tin và cơ sở hạ tầng của hệ thống hiệu quả. Cụ thể, đáp ứng đầy đủ các dữ liệu thông tin phục vụ cho việc đo lường, tính toán. Hệ thống cần phải tích hợp đầy đủ và toàn diện để hỗ trợ và cung cấp thông tin kịp thời đối với các cấp độ toàn ngân hàng và kinh doanh.

3.2.2.6. Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ nhân sự của Ngân hàng

Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của các ngân hàng. Một đội ngũ cán bộ không có hoặc hạn chế về trình độ, yếu kém về đạo đức thì sẽ khó có thể đưa NHTM phát triển theo đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra, thậm chí sẽ đẩy ngân hàng xuống vực sâu của khủng hoảng. Do đó, Vietinbank cần đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, điều đó cần được thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến khâu bổ nhiệm cán bộ, làm sao để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực trình độ, có bản lĩnh nghề nghiệp.

Trong ngành ngân hàng, yếu tố tín nhiệm và đạo đức nghề nghiệp luôn đóng vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng cho mọi kết quả trong hoạt động kinh doanh. Qua các phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua, hình ảnh xấu về các cán bộ nhân viên ngân hàng vi phạm quy định của pháp luật, của Ngành, vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức trong kinh doanh,... gây tổn thất lớn về tài sản cũng như ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Ngân hàng. Vietinbank cần nhanh chóng rà soát, tổ chức đánh giá lại nguồn nhân lực trên cơ sở đó xây dựng định biên lao động cho từng mảng hoạt động, từng đơn vị, bố trí lại lao động theo yêu cầu nhiệm vụ kinh doanh của từng chi nhánh và toàn hệ thống.


Xây dựng cơ chế chính sách đãi ngộ người lao động và quy chế chi trả lương theo nguyên tắc thị trường, căn cứ vào năng suất hiệu quả chất lượng công việc, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn tình trạng bình quân trong phân phối tiền lương. Cơ chế thi đua, khen thưởng cần thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh doanh theo cơ chế thị trường, thực sự tạo động lực thúc đẩy các phong trào thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra.

3.2.2.7. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ quản lý danh mục tài sản

Hiện nay, công nghệ thông tin đã trở thành nền tảng, hỗ trợ đắc lực hoạt động kinh doanh và công tác quản lý của Ngân hàng. Xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo các yêu cầu quản lý là hết sức cần thiết. Công nghệ gắn liền với quá trình hoạt động đặc biệt là hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng hiện đại. Bên cạnh đó, việc áp dụng phần mềm, công nghệ hiện đại hỗ trợ tích cực cho công tác quản trị điều hành, đo lường rủi ro,...

Hiện nay tại Vietinbank các giao dịch của ngân hàng với các khách hàng đã được vi tính hoá với các thiết bị thông tin hiện đại, rút ngắn đáng kể khoảng cách về trình độ công nghệ so với các NHTM của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống công nghệ thông tin của Vietinbank vẫn còn nhiều hạn chế. Thời gian tới, Vietinbank vẫn cần thiết nâng cao trình độ công nghệ thông tin của mình. Ngân hàng phải xây dựng một hệ thống thông tin với kỹ thuật phân tích có khả năng đo lường được các loại rủi ro, đồng thời phải kết hợp được các dữ liệu từ những giao dịch đơn lẻ thành một hệ thống cấu trúc có thể ước tính được rủi ro tổng thể của đơn vị và thu thập dữ liệu về tổng rủi ro của nhiều ngân hàng theo thời gian.

Việc xây dựng một hệ thống thông tin phục vụ QTRR phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau: (i) Hệ thống này phải hỗ trợ được việc tính toán giá trị rủi ro VAR; (ii) Thông tin lưu trữ giúp thực hiện phân tích chuỗi sự kiện theo trình tự thời gian, từ những sự kiện đơn lẻ; (iii) Có khả năng đo lường được giá trị hoạt động hiện tại và tương lai với các đối tượng khác nhau. Tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; triển khai các đề án cải tạ o, nâng cấp các giải pháp an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, bảo đảm an toàn tài sản và hoạt động của Ngân hàng; xây dựng hệ thống bảo mật thông tin, dữ liệu và


an toàn mạng, nghiên cứu và xây dựng đường truyền dữ liệu, liên kết với mạng thông tin quốc gia để tạo thế chủ động cho Ngân hàng.

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan

3.3.1.1. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.

Thực tế những năm qua cho thấy,việc quá chú trọng vào tăng trưởng kinh tế trên cơ sở vốn đầu tư (theo chiều rộng) chứ không phải là dựa trên năng suất hiệu quả (theo chiều sâu), một mặt đã dẫn đến đầu tư vốn dàn trải, kém hiệu quả: một số ngành phi sản xuất tăng trưởng “quá nóng” thiếu sự kiểm soát, trong khi những ngành sản xuất kinh doanh khác khó khăn. Mặt khác, trong điều kiện các thành phần kinh tế đều khó khăn về vốn thì nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế sẽ bị đẩy sang phía hệ thống ngân hàng. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho hệ thống ngân hàng mở rộng quá nhiều về số lượng (ngân hàng, chi nhánh) đồng thời với tín dụng tăng trưởng quá “nóng”, cơ cấu sử dụng vốn mất cân đối gây ra nhiều hệ lụy cho những năm sau này. Thiết nghĩ, Chính phủ cần phải xác định nhất quán và kiên trì theo đuổi mục tiêu ổn định kinh tế, trên cơ sở đó xây dựng các chính sách điều hành phù hợp, có tính ổn định lâu dài, tạo sự yên tâm tin tưởng cho các chủ thể trong nền kinh tế.

3.3.1.2. Cần có định hướng phát triển kinh tế xã hội cụ thể trong từng thời kỳ

Cơ cấu sử dụng vốn đặc biệt là cơ cấu cho vay/đầu tư của Vietinbank và các NHTM được xây dựng phù hợp với điều kiện thực tế đó là nhu cầu của nền kinh tế. Chính vì vậy,việc đề ra định hướng và chiến lược phát triển càng cụ thể với các chính sách thực hiện đầy đủ là cơ sở để Vietinbank và các doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược đầu tư vốn của mình. Định hướng phát triển kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn thể hiện ở chính sách khuyến khích hay hạn chế sự phát triển một ngành/lĩnh vực kinh tế nhất định. Điều đó, sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp sản xuất, kinh doanh vào ngành/lĩnh vực đó. Bởi trên thực tế, Chính phủ sẽ xây dựng và thực hiện các chính sách và biện pháp khác nhau nhằm đạt mục tiêu của mình. Nếu định hướng phát triển kinh tế xã hội được công bố một cách cụ thể, các chính sách minh bạch là cơ sở để các

Xem tất cả 148 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí