được giải quyết giữ tỷ lệ cao, án tồn đọng thấp, chất lượng chứng minh trong điều tra vụ án được nâng cao hơn, tỷ lệ oan sai giảm. Những vụ án VKS, Tòa trả lại để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc đình chỉ vụ án chiếm tỷ lệ không đáng kể.
- Đối với vật chứng: trong vụ án Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, vật chứng có vai trò quan trọng, do đó ĐTV cơ bản đã thu thập kịp thời, đầy đủ vật chứng, giúp cho việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ vật chứng kịp thời và hiệu quả.
- Đối với lời khai của những người tham gia tố tụng: Điều tra viên đã nghiên cứu hồ sơ, kịp thời thu thập những lời khai của bị hại, của người làm chứng quan trọng, phát hiện mâu thuẫn, thực hiện đúng quy định đối với những người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi.
- Đối với kết luận giám định: Đây là nguồn chứng cứ quan trọng, bắt buộc trong vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Đa số các vụ án, Điều tra viên đã kịp thời đưa bị hại đi giám định, đảm bảo khách quan, đúng pháp luật.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, thực tiễn chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng cho thấy còn không ít sai sót cần được khắc phục kịp thời. Điển hình như việc thu thập chứng cứ còn thiếu những chứng cứ quan trọng do xác định chưa đủ giới hạn chứng minh, chưa thu thập được một số vật chứng, một số lời khai còn mâu thuẫn nhưng chưa được giải quyết kịp thời, chưa làm rò kích thước, chiều hướng cũng như tư thế gây thương tích của một số bị can, thu thập chưa đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, các tình tiết định khung tăng nặng dẫn đến áp dụng sai luật. Những sai sót này do lỗi chủ quan của ĐTV, KSV cũng như một phần còn vướng mắc trong quy định của BLTTHS về chứng minh trong giai đoạn điều tra. Cụ thể như sau:
- Lý do trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại: Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại do thiếu những chứng cứ quan trọng mà CQĐT chưa làm rò, chủ yếu là chưa thu thập chứng cứ về nhân thân người phạm tội, về mục đích, động cơ phạm tội; Chưa thu thập đủ chứng cứ làm rò mức độ tham gia, thương tích do ai gây ra và trách nhiệm những người liên quan trong vụ án có đồng
phạm, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội danh khác hoặc có người đồng phạm khác.
Trong vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, khi lấy lời khai bị hại, người làm chứng còn gặp nhiều khó khăn khi người làm chứng còn sợ bị trả thù nên không dám khai đầy đủ, bị hại thường hoảng loạn nên không nhớ rò chi tiết vụ án. Khi lấy lời khai, hỏi cung bị can để xác định công cụ, phương tiện gây thương tích, chiều hướng, cơ chế hình thành vết thương cũng rất khó khăn, vì nhiều vụ án nhiều đối tượng tham gia nên không rò những ai gây ra các thương tích cụ thể. Do đó, nhiều vụ án ĐTV chủ quan, thu thập chứng cứ qua loa, không làm rò diễn biến của vụ án như xác định hiện trường vụ án chậm, trong biên bản xác định hiện trường không thể hiện cụ thể nơi xảy ra có đặc điểm như thế nào, có gạch đá hay không?…Trong khi trong lời khai của những đối tượng tham gia là dùng gạch để đập vào đầu gây ra thương tích, không làm rò vết thương do gạch đập vào đầu hay do nạn nhân tự ngã úp mặt xuống đường gây nên, cũng không làm rò gạch dùng gây thương tích cho bị hại là ở đâu, chuẩn bị trước hay nhặt tại hiện trường, đồng thời cũng có vụ án ĐTV không làm rò được mục đích các đối tượng quay lại hiện trưởng để gây án sau khi ban đầu chỉ là mẫu thuẫn nhỏ, cần làm rò vấn đề này để đánh giá có thuộc tình tiết phạm tội có tính chất côn đồ hay không?
Bên cạnh đó, nhiều vụ án phải gia hạn thời hạn điều tra, lí do của việc phải gia hạn chủ yếu là: có những vụ do phức tạp, cần xác minh nhiều nơi, nhiều đối tượng; có những vụ án bị hại từ chối giám định, trốn tránh không hợp tác với CQĐT; có những vụ án phải giám định lại, giám định bổ sung.
- Lý do của việc đình chỉ điều tra: chủ yếu đình chỉ điều tra do hết hạn điều tra những không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, bị hại rút yêu cầu khởi tố trong giai đoạn điều tra. Những trường hợp này chủ yếu do ĐTV chưa thu thập đủ chứng cứ chứng minh, hoặc khi đã thu thập đủ chứng cứ thì bị can bỏ trốn, hoặc trường hợp bị hại từ chối giám định và không có mặt tại địa phương, không thực hiện được biện pháp cưỡng chế dẫn giải theo quy định.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Hệ Phối Hợp Giữa Cơ Quan Điều Tra Và Viện Kiểm Sát Nhân Dânkhi Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Quy Định Về Thu Thập, Kiểm Tra Và Đánh Giá Chứng Cứ
- Đánh Giá Quy Định Của Pháp Luật Về Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Các Yêu Cầu Nâng Cao Hiệu Quả Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Cho Sức Khỏe Người Khác
- Các Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Cho Sức Khỏe Người Khác
- Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 11
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
- Hạn chế, vướng mắc trong việc giám định thương tích đối với các vụ việc bị hại không điều trị tại Cơ quan y tế có thẩm quyền hoặc việc điều trị không liên tục
Trên thực tế có rất nhiều vụ án sau khi xảy ra việc đánh nhau gây thương tích bị hại không đến cơ quan y tế điều trị ngay mà một vài ngày sau hoặc thậm chí cả tuần sau mới nhập viện điều trị hoặc sau khi nhập viện điều trị thì bị hại xin về nhà để điều trị ngoại trú. Tuy nhiên, qua một thời gian khi vết thương có biến chứng thì lại tiếp tục nhập viện để điều trị. Đối những vụ việc này, khi Cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định thì cơ quan giám định pháp y thường từ chối giám định; khi yêu cầu giải thích về cơ chế gây thương tích, thời gian bị gây thương tích thì giải thích không rò ràng nên các Cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng để giải quyết vụ án.
Đối với những vụ việc như trên, kết quả giám định thương tích để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án không vững chắc, vì trong thời gian bị hại không nhập viện điều trị có thể trong sinh hoạt hàng ngày sẽ bị những thương tích khác. Việc sử dụng kết luận giám định trong trường hợp này sẽ dễ dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
- Hạn chế, vướng mắc trong việc bị hại từ chối giám định hoặc giám định thương tích đối với các vụ việc xảy ra lâu ngày, thời điểm giám định thương tích đã được chữa khỏi.
Trên thực tế hiện nay xảy ra nhiều vụ án bị hại không hợp tác đi giám định thương tích và cũng không rút đơn yêu cầu khởi tố. Qua một thời gian dài, bị hại yêu cầu giám định thương tích thì các thương tích còn lại chỉ là các vết sẹo mờ. Do đó, việc giám định thương tích để xử lý trong các trường hợp này sẽ không chính xác.
Trường hợp người bị hại không hợp tác để đi giám định và cũng không từ chối giám định, nhưng qua xem xét và nhận thấy nếu đối chiếu với các bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích tại Thông tư liên tịch số 22/2019/TT – BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giáp định pháp y, giám định tâm thần thì thương tích của bị hại không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu (theo khoản 2 Điều 134 BLHS) thì phải xử lý như thế nào. Trường hợp này thì CQĐT có được trưng cầu giám định thương tích qua hồ sơ trong trường hợp này hay không.
- Hạn chế, vướng mắc trong việc có sự khác nhau giữa giám định lần đầu và giám định lại, giám định lần hai
Trường hợp kết quả giám định lại về thương tích có kết quả khác so với kết quả giám định ban đầu thì sẽ sử dụng kết quả giám định nào để giải quyết vụ án.
Điển hình như vụ ánông ĐNA ngụ TP Biên Hòa bị ôngHlấy cây sắt đánh nhiều cái vào người ông ĐNA khiến ông bị thương ở đầu, phải đi cấp cứu ngày06/12/2019. Theo kết quả giám định của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai, tỉ lệ thương tật tạm thời của ông ĐNA là 43% nên CQĐT Công an Thành phố Biên Hòa đã khởi tố vụ án, khởi tô bị can và bắt tạm giam H. Sau đó, VKS Thành phố Biên Hòa đã yêu cầu CQĐT trưng cầu giám định lại. Kết quả giám định lần thứ hai của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công anxác định tỉ lệ thương tật của ông ĐNA là 16,67%. Không đồng ý, H và gia đình đề nghị giám định lại. Giám định lần thứ ba, Viện Pháp y Quốc gia cho ra kết quả tỉ lệ thương tật của ông ĐNA là 11%.
Thông thường, khi có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại (Điều 30 Luật Giám định tư pháp) thì CQĐT trưng cầu giám định lại lần thứ hai. Tuy nhiên, khi giám định lần hai kết quả lại khác với lần đầu và lần giám định lại. Vậy trường hợp này CQĐT căn cứ vào kết quả giám định nào để giải quyết vụ án.
2.2.3. Thực tiễn kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
Kiểm tra, đánh giá chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Kiểm tra, đánh giá chứng cứ chính xác là yếu tố quyết định nhằm tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng được thực hiện bởi CQĐT và VKS, trong đó người trực tiếp có trách nhiệm kiểm tra đánh giá chứng cứ là ĐTV và KSV. ĐTV kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xem xét căn cứ khởi tố bị can cũng như các lệnh, các quyết định tố tụng khác, nếu xác định thấy có căn cứ thì đề xuất Thủ trưởng, phó Thủ trưởng CQĐT khởi tố bị can cũng như các văn bản tố tụng cần thiết. Kiểm sát viên kiểm tra, đánh giá chứng cứ để thực hiện quyền năng công tố và kiểm sát điều tra, đề xuất phê chuẩn các quyết định tố tụng nếu có căn cứ hoặc yêu cầu thu thập thêm chứng cứ nếu chưa đủ căn cứ phê chuẩn. Thực tế cho thấy, Cơ quan điều tra, VKSND tại Biên Hòa, Đồng Nai đã thực hiện tương đối tốt các hoạt động nêu trên.
Tuy nhiên, việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ của CQĐT, VKS trong giai đoạn điều tra vẫn còn một số tồn tại, thiếu sót như chưa kịp thời phát hiện những vi phạm khi thu thập chứng cứ, đánh giá sai các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết định khung tăng nặng, giảm nhẹ; khi phát hiện chứng cứ yếu, giá trị chứng minh còn thấp nhưng vẫn sử dụng để chứng minh mà ngại thu thập bổ sung; KSV còn chưa chủ động trực tiếp tiến hành biện pháp điều tra theo luật định để đánh giá chứng cứ; chưa phối hợp chặt chẽ giữa ĐTV và KSV khi đánh giá chứng cứ;
Một số trường hợp ĐTV chưa thu thập đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, do đó khi đánh giá chứng cứ chưa thuyết phục, dẫn đến khiếu nại, gây dư luận không tốt, điển hình như vụ án sau đây:
Nội dung vụ án: Nhất và Oai là hàng xóm nhưng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 11 giờ 30 ngày 15/3/2012, Oai sang nhà Nhất gây sự với bà Nguyễn Thị An (vợ Nhất), túm tóc bà An để đánh, nhưng không để lại thương tích. Nghe tiếng vợ và mọi người kêu, Nhất chạy về thấy Oai đang đang đánh vợ mình, Nhất chạy ra và cầm cây chéo giàn giáo dài khoảng 1,5m đánh 1 cái vào đầu của Oai. Sau đó mọi người đưa Oai đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất.
Theo Giấy chứng nhận thương tích số 162/03/12CN của Bệnh viện, Oai bị chấn thương đầu, nứt sọ thái dương phải. Kết luận của Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai tỉ lệ thương tật của Oai là 25%. Ngày 15/10/2019 Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Biên Hòa có kết luận điều tra vụ án hình sự số 541/KLĐT-HS đề nghị truy tố về tội cố ý gây thương tích, theo Khoản 2, Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, năm 2009 (nay là Khoản 2, Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017). Không đồng ý với kết luận điều tra này, Nhất đã khiếu nại nhiều nơi. Trong vụ án này, có nhiều quan điểm trái chiều, trong đó có quan điểm cho rằng Nhât không phạm tội cố ý gây thương tích vì Oai đã có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng với vợ bị can, do đó có dấu hiệu của trường hợp bị kích động mạnh. CQĐT đã không làm rò dấu hiệu có hay không trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong trường hợp này, chưa thu thập, đánh giá đẩy đủ chứng cứ có giá trị chứng minh để làm rò vấn đề này [8].
Một trong những sai lầm, thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật của ĐTV khi chứng minh trong điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, đó là xác định chưa đúng tình tiết tăng năng, giảm nhẹ TNHS, tình tiết định khung tăng nặng của Điều 134 BLHS năm 2015 (trước năm 2018 là Điều 104 BLHS 2003). Khi xác định không đúng các tình tiết này, dẫn đến việc kết luận điều tra đề nghị truy tố không đúng khoản, ảnh hưởng cả đến quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại. Có trường hợp, VKS trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, cũng không phát hiện ra, dẫn đến kết quả Tòa án trả hồ sơ để điều tra lại.
Ví dụ: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 21/10/2016, Nguyễn Xuân Thi đến nhà anh Huỳnh Văn Tâm để dự tiệc cưới. Tại đây, Thi qua bàn anh Dương Hiển Thành mời anh Thành cùng lên sân khấu nhảy, anh Thành không đồng ý dẫn đến mâu thuẫn, lời qua tiếng lại giữa Thi và Thành nhưng được mọi người can ngăn. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Thi được anh Vò Ngọc Thành dùng xe máy chở về nhà, khi đi về được khoảng 50m thì Thi xuống xe, đi bộ quay trở lại nhà anh Tâm. Khi đến cổng, thấy anh Dương Hiển Thành từ sân nhà anh Tâm đi ra, Thi xông dùng cả hai tay đấm 02 cái trúng vào vùng mặt anh Thành, làm anh Thành ngã xuống đất rồi Thi bỏ về nhà. Ngày 22/10/2016, anh Thành đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Đ để điều trị, đến ngày 03/11/2016 thì xuất viện.
Tại Bản kết luận pháp y thương tích số: 1100/PY-Tgt, ngày 30/10/2016 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Đ kết luận: anh Dương Hiển Thành bị đa thương, gãy xương chính mũi, tỷ lệ thương tật 15%. Tổn thương trên được tác động bằng ngoại lực cứng, tày. Ngoài ra, theo lời khai của anh Hồ Văn Hà và Dương Hiển Thành cũng tại cổng nhà anh Huỳnh Văn Tâm, ngay trước khi bị cáo Nguyễn Xuân Thi dùng tay đánh anh Thành gây thương tích, thì Thi đã dùng tay đánh anh Hồ Văn Hà gây thương tích tỷ lệ 29%. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử Nguyễn Xuân Thi không thừa nhận hành vi gây thương tích đối với anh Hồ Văn Hà, đồng thời không có nhân chứng khách quan nào chứng kiến việc Thi gây thương tích cho Hà nên CQĐT - Công an thành phố Biên Hòa đã tách vụ án hình sự để tiếp tục điều tra, xử lý sau đối với vụ việc trên, chỉ đề nghị truy tố Thi theo khoản 1 Điều 134 BLHS [8].
Như vậy, việc Các cơ quan tố tụng xác định bị can phạm tội: "Cố ý gây
thương tích" là có căn cứ, đúng tội danh. Tuy nhiên, sai lầm ở trường hợp này là CQĐTáp dụng Khoản 1 Điều 134 BLHS. Bởi lẽ: Xuất phát từ một mâu thuẫn nhỏ nhặt, đã
được mọi người can ngăn và đưa về nhà nhưng Thi vẫn bực tức quay lại dùng tay đánh02 cái liên tiếp vào mặt anh Dương Hiển Thành dẫn đến đa thương, vỡ xương chính mũi,
tỷ lệ thương tật 15%. Hành vi trên của Thi thể hiện ý thức coi thường pháp luật, có tínhchất côn đồ. Đây là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại Điểm i Khoản 1
Điều 134 BLHS. Với tỷ lệ thương tật mà Thi gây ra đối với anh Dương Hiển Thành là15% thì hành vi phạm tội của Thi thuộc Khoản 2 Điều 134 BLHS, CQĐT phải áp dụng
điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS mới chính xác.
2.3. Đánh giá thực tiễn chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Do tác động của nhiều yếu tố nên các hiện tượng tiêu cực, các loại tội phạm tại Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vẫn còn xảy ra và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của Các cơ quan và người có thẩm quyền tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và trong chứng minh trong giai đoạn điều tra tội phạm nói riêng đã hoàn thành nhiệm vụ và đạt được hiệu quả nhất định.
Trong những năm qua, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của CQĐT, VKSND thành phố Biên Hòa ngày càng nâng cao về chất lượng, xác định đúng giới hạn, đối tượng chứng minh của các vụ án và tiến hành chứng minh đầy đủ những tình tiết của vụ án, cũng như những tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Qua thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2016-2020, tỉ lệ chứng minh vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác luôn ở mức cao, tỉ lệ án tồn đọng chuyển qua năm mới thấp. Tương tự, tỉ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại và đình chỉ điều tra hàng năm không đáng kể. Nhìn chung, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã cơ bản đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm bảo được quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân theo tinh thần cải cách tư pháp.
Có được thành quả trên, là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 đã quy định tương đối chặt chẽ về chứng minh trong VAHS. Nhất là khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực
thi hành, đã khắc phục một số hạn chế của BLTTHS năm 2003, giúp cho việc thu thập, đánh giá chứng cứ đạt hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, công tác quản lý, chỉ đạo của tập thể lãnh đạo CQĐT, VKSND thành phố Biên Hòa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chứng minh vụ án hình sự.
Thứ ba, năng lực, trình độ, ý thức pháp luật của đội ngũ ĐTV, KSV ngày càng được nâng cao, thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ tư, công tác phối hợp liên ngành, nhất là giũa CQĐT và VKSND thành phố Biên Hòa được chú trọng và thực hiện tốt.
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, quá trình chứng minh vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vẫn còn một số hạn chế vướng mắc, ảnh hưởng đến chất lượng chứng minh: ĐTV thu thập chứng cứ còn chưa đầy đủ, KSV chưa chủ động nghiên cứu phát hiện, chưa bám sát hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ dẫn đến vẫn còn tình trạng điều tra bổ sung, làm kéo dài vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị buộc tội; một số trường hợp chậm chễ đưa bị hại đi giám định, khi có kết luận giám định thì người bị buộc tội đã bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình chứng minh; khó khăn trong việc thu thập, sử dụng nguồn chứng cứ dữ liệu điện tử để chứng minh. Những hạn chế trên là do các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan sau:
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan:
- Một số quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 còn hạn chế, vướng mắc, chưa có nhiều văn bản hướng dẫn về những quy định còn vướng mắc khi thực hiện trên thực tế.
- Nhiều vụ án sau trong khi chờ kết luận giám định chính thức, chưa áp dụng được biện pháp ngăn chặn, khi có kết luận giám định thì đối tượng đã bỏ trốn, trong khi quy định về dẫn giải đi giám định, quy định về sử dụng kết luận giám định trong trường hợp có nhiều kết luận giám định có kết quả khác nhau hoặc thương tích đã lâu, vết thương đã lành có được giám định thông qua hồ sơ hay không, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể.