bảo khách quan trong quá trình chứng minh. Như vậy, khi đánh giá chứng cứ, nếu như “không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [20].
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định của BLTTHS về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới với nhiều ưu điểm, tiến bộ, hoàn thiện hơn so với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, để có thể áp dụng chính xác và thống nhất, khắc phục vướng mắc, theo tác giả, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 quy định về nguồn chứng cứ tại Điều 87, nội dung điều luật quy định:
Điều 87 BLTTHS 2015 quy định:
“1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Quy Định Của Pháp Luật Về Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Thực Tiễn Kiểm Tra, Đánh Giá Chứng Cứ Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Cho Sức Khỏe Người Khác
- Các Yêu Cầu Nâng Cao Hiệu Quả Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn Hại Cho Sức Khỏe Người Khác
- Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 11
- Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 12
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
c) Dữ liệu điện tử;…”
Có thể nói, nguồn chứng cứ là một nội dung quan trọng, chứng cứ phải được thu thập từ các loại nguồn này. Nguồn chứng cứ chính là hình thức, là nơi chưa đựng những thông tin phản ánh trung thực về vụ án. Dựa vào nguồn chứng cứ, để tìm ra đối tượng sử dụng để chứng minh. Tuy nhiên, hiện nay Điều 87 chỉ liệt kê những loại nguồn chứng cứ, mà không quy định khái niệm nguồn chứng cứ. BLTTHS hiện hành chỉ quy định khái niệm chứng cứ tại Điều 86. Do đó, theo tác giả Điều 87 cần có khái niệm nguồn chứng cứ là gì, sau đó mới liệt kê các loại nguồn như quy định hiện hành. Việc quy định khái niệm chứng cứ và khái niệm nguồn chứng cứ để đi đến nhận thức thống nhất hơn về nguồn chứng cứ, có ý nghĩa quan trọng để giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật.
Thứ hai, BLTTHS hiện hành có bổ sung thêm nguồn chứng cứ “dữ liệu điện tử” và “kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế”. Vấn đề bổ sung thêm nguồn “dữ liệu điện tử” là phù hợp với giai đoạn hiện nay, vì thời gian gần đây, các đối tượng phạm tội thường sử dụng các phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội, với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Dữ liệu điện tử được quy định cụ thể tại Điều 99 BLTTHS “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”. Hiện nay, một số vụ án CYGTT, các đối tượng không trao đổi trực tiếp mà sử dụng các trang web, fanpage để kích động, dụ dỗ, lập kế hoạch gây án. Để giải quyết vụ án này, ĐTV phải nhanh chóng phát hiện và thu thập, nếu không các đối tượng sẽ xóa dữ liệu, hủy trang web mà chúng đã tạo ra để hoạt động phạm tội. Để thu thập dữ liệu điện tử, BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa hoạt động thu thập nguồn chứng cứ này tại Điều 107, theo đó:
“Điều 107. Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử
1. Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật.
Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử…”[20].
Quy định về thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử là tài liệu chứng cứ khoa học có giá trị chứng minh cao. Tuy nhiên, nghiên cứu Điều luật cho thấy còn có điểm chưa thống nhất.
Điều 107 với tên gọi Điều luật là “Thu thập phương tiện, dữ liệu điện tư”, nhưng trong nội hàm Điều luật tại khoản 1 cũng Điều này lại quy định “Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ…”. Như vậy, tên Điều luật và khoản 1 Điều luật đã không có sự thống nhất, với tên Điều luật như vậy thì có nghĩa “thu thập phương tiện điện tử” giống với “thu giữ phương tiện điện tử”. Tuy nhiên, điều này không hợp lý, vì phương tiện điện tử là nơi chứa đựng dữ liệu điện tử, còn dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ đang cần thu thập để chứng minh.
Hơn nữa, dữ liệu điện tử không chỉ được thu thập từ phương tiện điện tử, mà còn được thu thập các nguồn điện tử khác. Theo khoản 2 Điều 99 BLTTHS năm 2015 thì “Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác”. Như vậy, theo Điều 99 khoản 2 thì dữ liệu điện tử có thể thu thập từ mạng máy tính, mạng viễn thông…. Do đó, khoản 1 Điều 107 chỉ quy định về thu giữ phương tiện điện tử, mà không có quy định thu giữ dữ liệu điện tử là còn mâu thuẫn.
Theo tác giả, để thống nhất giữa Điều 99, Điều 107 thì có thể sửa đổi tên Điều luật để đảm bảo thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Điều 107 có thể bổ sung như sau:
“Điều 107. Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử
1. Phương tiện điện tử do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện và có thể mời người có chuyên môn liên quan tham gia; phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Khi thu giữ các phương tiện điện tử có thể thu thiết bị ngoại vi kèm theo và các tài liệu có liên quan. Việc niêm phong, mở niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật….”
Thứ ba, liên quan đến quy định sử dụng dữ liệu điện tử trong chứng minh. Điều 99 BLTTHS chỉ quy định “…Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử…”. Như vậy, để xem xét dữ liệu điện tử có giá trị chứng minh hay không, chủ thể có thẩm quyền phải xem xét nhiều yếu tố như quy định tại Điều 99. Tuy nhiên, xác định giá trị chứng minh của dữ liệu điện tử rất khó khăn, phức tạp, cần có kiến thức chuyên môn chuyên sâu, do đó không phải ai cũng xác định chính xác được dữ liệu điện tử.
Tuy nhiên, hiện nay dữ liệu điện tử không phải là trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 206 BLTTHS. Do đó, dữ liệu điện tử thu được, có thuộc trường hợp bắt buộc giám định hay không, hay chỉ cần phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng? Theo tác giả, cần thiết phải bổ sung việc giám định dữ liệu điện tử là một trong các trường hợp giám định vào Điều 206 BLTTHS hoặc có hướng dẫn cụ thể những trường hợp nào phải bắt
buộc giám định dữ liệu điện tử để áp dụng thống nhất, tránh việc áp dụng không thống nhất của các cơ quan có thẩm quyền THTT.
Thứ tư, liên quan đến tổ chức bộ máy của CQĐT: Về vấn đề này, có liên quan đến hiệu quả của quá trình chứng minh vụ án. Hiện nay, tổ chức CQĐT cơ bản đã đạt hiệu lực, hiệu quả. Từ khi Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 ban hành và có hiệu lực, đã góp phần trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Tuy có nhiều thuận lợi và đạt được nhiều kết quả, nhưng thực tế vẫn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả chứng minh trong điều tra VAHS.
Hiện nay, với xu thế tinh giảm biên chế, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của toàn
hệ thống chính trị tinh. Tổ chức CQĐT hình sự đã có nhiều sự thay đổi, đặt biệt là
cơ cấu, tổ chức CQĐT hình sự. Vì vây, những quy định trong Luật tổ chức CQĐT
hình sự đã không còn phù hợp. Để thích nghi với tình hình mới, Bộ Công an đã ban
hành nhiều thông tư hướng dẫn sát nhập hệ thống các cơ quan điều tra. Việc này đã
được triển khai trên thực tế. Hơn nữa, Bộ Công an đang triển khai đề án bố trí Công
an xã chính quy, do đó, quy định về trách nhiệm của Công an xã theo Điều 44 Luật
tổ chức CQĐT hình sự cũng không còn phù hợp. Trong quá trình giải quyết vụ án
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, những thông tin, tài liệu
ban đầu thường được tiếp nhận, giải quyết ở cấp phường, xã. Do vậy, cần quy định
trách nhiệm kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo cho Công an xã, giảm tải công
việc cho ĐTV khi tiếp nhận, thụ lý điều tra, chứng minh vụ án. Do đó, Bộ Công an
cần chủ trì xây dựng và đề nghị sửa đổi sửa đổi luât tổ chức CQĐT hình sự năm2015.
3.2.1.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật
Thứ nhất, đối với quy định về kết luận giám định. Theo Điều 100 BLTTHS quy định kết luận giám định là một loại nguồn chứng cứ. Để có kết luận giám định thì phải có yêu cầu giám định. Trong tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, một trong những vấn đề bắt buộc chứng minh là thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của bị hại. BLTTHS quy định: “Điều 206. Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định: 4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;….”
Như vậy, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe là yêu cầu bắt buộc phải chứng minh. Nếu không xác định được vấn đề này, thì sẽ không thể truy cứu TNHS người phạm tội.
Theo điều 134 BLHS quy định: “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm….”. Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, muốn chứng minh thì CQĐT phải yêu cầu tổ chức giám định kết luận về mức độ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe theo Điều 134 BLHS. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp bị hại từ chối giám định, gây khó khăn cho CQĐT. BLTTH năm 2003 chưa có quy định cụ thể khắc phục tình trạng này. Để khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có quy định tại Điều 127 như sau: “2. Dẫn giải có thể áp dụng đối với: … b) Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không có lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”. Theo quy định này, nếu bị hại từ chối giám định thì cơ quan có thẩm quyền có quyền áp dụng biện pháp dẫn giải. Tuy vậy, triển khai trong thực tế lại tiếp tục gặp vướng mắc, xử lý thế nào nếu bị hại kiên quyết từ chối giám định, cố tình lảng tránh, không chấp nhận dẫn giải. Tình huống này xảy ra thì CQĐT gặp khó khăn vì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp này, do đó, vụ án lại kéo dài, khó khăn khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm vì thời hạn giải quyết phải theo luật định. Thêm nữa, Điều 127, Điều 62 BLTTHS chỉ quy định chung chung là “lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan…” mà không quy định cụ thể. Đây cũng là vấn đề dẫn đến áp dụng pháp luật không thống nhất.
Ngoài ra, những trường hợp có các kết luận giám định mâu thuẫn hoặc bị hại không điều trị tại các cơ sở ý tế, thương tích đã lâu, sẹo đã mờ việc giám định khó cho kết quả chính xác, trong khi việc giám định qua hồ sơ cũng chưa có hướng dẫn cụ thể.
Do đó, theo tác giả, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn về hai vấn đề:
Một là, hướng dẫn cụ thể về thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế dẫn giải bị hại đi giám định và cho phép giám định thương tích trên cơ sở hồ sơ bệnh án mà không cần phải có mặt bị hại trong trường hợp bị hại không hợp tác với Cơ quan điều tra.
Hai là, hướng dẫn xác định tiêu chí, trường hợp cụ thể được dẫn giải để áp dụng thống nhất.
Ba là, hướng dẫn cụ thể trường hợp có nhiều kết luận giám định khác nhau thì sử dụng kết luận giám định nào để chứng minh vụ án.
Thứ hai, Dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ mới được quy định trong BLTTHS, do đó việc áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất, phụ thuộc nhiều vào trình độ nhận thức của người có thẩm quyền THTT. Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành hướng dẫn cụ thể về trường hợp phải giám định dữ liệu điện tử để thực hiện một cách thống nhất, nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều tra tội phạm.
Thứ ba, hướng dẫn áp dụng một số tình tiết chưa được quy định rò trong Điều 134 BLHS năm 2015. Theo điểm b, khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 quy định “Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm”. Quy định này là rất cần thiết trong tình hình hiện nay, vì thực tế rất nhiều đối tượng sử dụng a-xít, hóa chất làm cho nạn nhân tàn phế, tổn thương nghiêm trọng, để lại hậu quả lâu dài. Tuy nhiên, như thế nào là a-xit, hóa chất “nguy hiểm”, dựa vào hạm lượng hay mức độ tổn thương để xác định? Trường hợp dùng hàm lượng xác định thì nếu không thu được a-xit thì việc giám định như thế nào? Những vấn đề này cần có hướng dẫn để áp dụng thống nhất.
Điểm c khoản 1 Điều 134 có quy định về “người già yếu”, tuy nhiên hiện nay chỉ có hướng dẫn về trường hợp người già và người quá già yếu tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 và Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần nghiên cứu, ban hành hướng dẫn về nội dung này.
3.2.2. Các giải pháp kiện toàn đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ
Trong quá trình chứng minh VAHS, ở bất kỳ giai đoạn nào, chất lượng và hiệu quả của hoạt động này đều phụ thuộc rất lớn vào các chủ thể THTT. Trong giai đoạn điều tra vụ án Điều tra viên, Kiểm sát viên là những chủ thể chính thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ, nhất là vai trò của ĐTV. Do đó, để nâng cao hiệu quả của hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, điều trước tiên là cần có đội ngũ ĐTV, KSV không những đủ về số lượng mà còn phải giỏi về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt và ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm cao. Cụ thể là các giải pháp sau:
- Đối với đội ngũ ĐTV, Cán bộ điều tra của CQĐT:
Để hạn chế tình trạng quá tải trong quá trình điều tra cũng như nâng cao hiệu quả chứng minh, cần tăng cường bổ sung nhân lực cho các CQĐT các cấp, nhất là các CQĐT cấp huyện. Hiện nay số lượng ĐTV còn thiếu, do vậy, cần rà soát, xem xét những cán bộ có kinh nghiệm ở các đội nghiệp vụ khác, trước đây được đào tạo theo chuyên ngành điều tra, để đào tạo, bồi dưỡng điều chuyển về CQĐT thực hiện hoạt động điều tra. Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ điều tra, để đủ điều kiện bổ nhiệm ĐTV, đảm bảo số lượng ĐTV ở CQĐT các cấp.
Bên cạnh những người được đào tạo, tuyển dụng trong các trường CAND, cần tiếp tục tăng cường, có chính sách đào tạo, tuyển dụng những cán bộ tốt nghiệp ngành Luật các trường ngoài ngành CAND VÀO vào CQĐT. Đối với những Cán bộ điều tra, ĐTV tinh thần trách nhiệm chưa cao, hoặc thường xuyên chỉ hoàn thành nhiệm vụ, cần điều chuyển sang các vị trí khác. Nhiều cán bộ điều tra trong CQĐT, chỉ mới tốt nghiệp trình độ trung cấp, cần tiếp tục xây dựng kế hoạch đào tạo, nâng cao cho nhóm đối tượng này.
- Đối với đội ngũ KSV của VKS:
Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra, vì vậy, số lượng, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của KSV có vai trò quan trọng với hiệu quả hoạt động chứng minh VAHS. Do đó, bên cạnh việc tăng cường đủ số lượng KSV các cấp, thì giải pháp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ KSV cũng cần chú ý, trong đó cần tập trung vào một số nội
dung sau: VKS các cấp cần Nghiêm túc thực hiện Kế hoạch số 13-KH/BCSĐ ngày 31/01/2018;Kế hoạch số 27/KH-VKSTC ngày 23/3/2018 của Viện KSND tối cao về luân chuyển, điều động công chức. Căn cứ vào đó, rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ KSV hiện có một cách khoa học, hợp lý, thực hiện tốt công tác bổ nhiệm, bố trí và phân công KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoạc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khi điều động, huyển đổi vị trí công tác KSV phải phù hợp với năng lực, nguyện vọng của họ.
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên
Sự phối hợp giữa VKS và CQĐT trong quá trình điều tra vụ án có vai trò rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và chứng minh trong điều tra vụ án hình sự nói riêng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp, đã nêu rò: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm” [2]. Theo quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật liên quan, CQĐT, KS có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn lý riêng, tuy nhiên thống nhất trong nhận thức, việc phối hợp trong đánh giá chứng cứ, chứng minh tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, việc việc tăng cường quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS là hết sức cần thiết. Thực hiện tốt quan hệ phối hợp này sẽ tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án nói chung và vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe nói riêng.
Để thực hiện tốt mối quan hệ giữa CQĐT và VKS, trước hết cần thực hiện nghiêm túc Thông tư 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS, vận dụng trong quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án. CQĐT và VKS các cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cần quán triệt thực hiện nghiêm túc Thông tư nói trên.
Trong quá trình điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, CQĐT và VKS phối hợp trong từng hoạt động điều tra và trong suốt quá trình điều tra, trong quá trình đánh giá chứng cứ nhằm đảm bảo khách quan, đầy đủ nhất,