Quan Hệ Phối Hợp Giữa Cơ Quan Điều Tra Và Viện Kiểm Sát Nhân Dânkhi Chứng Minh Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự

Trong vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, khi kiểm tra, đánh giá chứng cứ, cần chú ý đối với thương tích của bị hại. ĐTV cần xác định thương tích trên cơ thể nạn nhân nằm ở bộ phận nào, đặc điểm (nhất là trường hợp nghi có tổn thương bên trong cơ thể); cơ chế hình thành thương tích là gì, đây là câu hỏi đóng vai trò rất quan trọng trong xác định dấu hiệu tội phạm, xác định người gây ra thương tích, xác định dấu hiệu lỗi của chủ thể, xác định mức độ nguy hiểm và cá thể hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội đặc biệt là các vụ án có đồng phạm, trong đó nhiều người gây thương tích cho một người. Lưu ý sự hình thành thương tích là một quá trình có sự tham gia của nhiều yếu tố tác động. Các dấu vết thương tích được hình thành phụ thuộc vào một số yếu tố như trọng lượng của vật; lực tác động mạnh hay yếu; đánh thẳng, đánh xiên, đánh với, đánh hụt lúc nạn nhân bỏ chạy, đánh vát...; tư thế đứng, ngồi, cúi, dơ tay chống đỡ, gạt hung khí ra...; ngã, trượt, chèn ép, xoắn, vặn, xoay người...; gãy xương trực tiếp, gián tiếp hay trạng thái cơ thể (tỉnh táo, bất tỉnh, có sử dụng rượu, ma túy,...).

Như vậy, quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án bao gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Các hoạt động này có sự khác nhau về tính chất, phương pháp nhưng có quan hệ biện chứng với nhau, cùng mục đích nhằm chứng minh vụ án hình sự. Nếu như bất cứ một hoạt động nào trong các hoạt động trên thực hiện không tốt thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động còn lại và ảnh hưởng đến hiệu quả của toàn bộ quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Do đó, các chủ thể có thẩm quyền chứng minh không được nhận thức cảm tính dễ dẫn đến sự ngộ nhận chứng cứ, không được chủ quan duy ý chí, không được định kiến khi thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đây là những sai lầm nghiêm trọng cần phải tránh trong quá trình giải quyết vụ án.

1.5. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dânkhi chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Trong quá trình giải quyết VAHS, các cơ quan có thẩm quyền THTT có trách nhiệm chung là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, do đó mối quan hệ giữa các cơ quan THTT có mối quan hệ là tất yếu, khách quan và được pháp luật TTHS quy định. Trong mối quan hệ tố tụng hình sự giữa các cơ quan THTT thì quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKSND là mối quan hệ đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng, được hình thành ngay từ giai đoạn đầu tiên của quá trình giải

quyết VAHS, nhất là giai đoạn điều tra vụ án, khi CQĐT tiến hành áp dụng các quyết định tố tụng hình sự như áp dụng biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ chứng minh, VKSND bảo đảm cho hoạt động nói trên đúng pháp luật, khách quan, chính xác. VKSND chỉ trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong các trường hợp luật định. Nếu các quyết định tố tụng do CQĐT ban hành trái luật, không có căn cứ VKS yêu cầu CQĐT hủy bỏ hoặc VKS trực tiếp ra quyết định hủy bỏ. CQĐT cũng kiểm soát lại một số hoạt động tố tụng của VKS nhưng mức độ kiểm soát của CQĐT đối với VKS chỉ dừng ở hoạt động theo dòi, giám sát chứ không có quyền phê chuẩn, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của VKSND, mà chỉ kiến nghị với VKSND cùng cấp để hủy bỏ, khắc phục; nếu không nhất trí thì CQĐT kiến nghị VKSND cấp trên trực tiếp có trách nhiệm xem xét, giải quyết.

Về hình thức thực hiện mối quan hệ tố tụng giữa CQĐT và VKS chủ yếu được thực hiện bằng văn bản tố tụng, tuy nhiên, trong một số trường hợp, để bảo đảm tính nhanh chóng, khẩn trương của hoạt động điều tra, nhất là đối với các vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhằm thu thập kịp thời chứng cứ chứng minh, pháp luật cho phép có thể được thực hiện bằng hình thức trao đổi, đối thoại trực tiếp giữa ĐTV, KSV khi tiến hành thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ.

Khi chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung và trong điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn tại cho sức khỏe của người khác, sự phối hợp giữa CQĐT và VKSND là tất yếu, khách quan, đều hướng đến mục đích là phát hiện nhanh chóng, xử lý tội phạm và người phạm tội đúng pháp luật, khách quan. Trong giai đoạn điều tra VAHS, hoạt động chứng minh chủ yếu do CQĐT tiến hành nhưng phải phối hợp với VKSND để bảo đảm hoạt động chứng minh đạt được mục đích và tuân thủ đúng quy định của pháp luật. CQĐT cũng như VKSND không thể tiến hành các hoạt động chứng minh vụ án một cách độc lập mà phải phối hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trong quá trình thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ chứng minh. Nếu hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, đầy đủ, hoạt động chứng minh sự thật khách quan của vụ án sẽ đạt được mục đích đề ra, đó là xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

Tiểu kết chương 1

Quá trình chứng minh trong VAHS là trải qua các giai đoạn TTHS như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Các hoạt động này đều thực hiện dưới hình thức, biện pháp, thẩm quyền tố tụng hình sự khác nhau. Quá trình chứng minh là quá trình nhận thức, do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Thông qua các hoạt động này mà hiệu quả, giá trị chứng minh của các thông tin, tài liệu của vụ án được khẳng định. Tổng hợp các hoạt động thu thập kiểm tra, đánh giá chứng cứ tạo thành nội dung của quá trình chứng minh trong TTHS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

Hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hoạt động giữ vai trò quan trọng, là cơ sở để tiến hành các hoạt động tố tụng ở các giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, chủ thể chứng minh đuộc BLTTHS quy định bao gồm chủ thể có nghĩa vụ chứng minh bao là CQĐT, VKS mà trực tiếp là ĐTV, KSV được giao thực hiện nghĩa vụ chứng minh và chủ thể có quyền chứng minh nhưng không có nghĩa vụ buộc phải chứng minh là những người tham gia tố tụng có liên quan đến giải quyết VAHS. Có thể thấy, quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là quá trình tư duy và thực tiễn của chủ thể có thẩm quyền chứng minh. Qúa trình này phải dựa trên các quy định của pháp luật, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết đúng đắn VAHS.

Chương 2

Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - 5

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG MINH

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VÀ THỰC TIỄN CHỨNG MINH VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI


2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

2.1.1. Quy định về đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh

2.1.1.1. Quy định về đối tượng chứng minh

Khi vụ việc có dấu hiệu phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe xảy ra, đòi hỏi quá trình điều tra phải làm rò một loạt các vấn đề như: có sự việc phạm tội xảy ra hay không? Nếu có thì thời gian, địa điểm? Ai là người thực hiện tội phạm? Có lỗi hay không? Có đồng phạm hay không? Tính chất, mức độ thiệt hại?

... Để kết luận chính xác VAHS, đòi hỏi phải làm rò các vấn đề đó. Những tình tiết bắt buộc phải chứng minh trong tất cả các VAHS được khoa học pháp lý xác định là đối tượng chứng minh. Bộ luật TTHS năm 2015 quy định đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự tại Điều 85 với nọi dung như sau:

“Điều 85. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự

Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” [20].

Ngoài ra, đối với tất cả những vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện, trong hoạt động chứng minh phải làm rò thêm các tình tiết khác quy định tại Điều 416 BLTTHS.

Dựa vào ý nghĩa pháp lý hình sự của các vấn đề này đối với việc giải quyết VAHS, có thể chia thành ba nhóm: Những vấn đề phải chứng minh thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm và các tình tiết định khung tăng nặng, định khung giảm nhẹ; Những vấn đề phải chứng minh nằm thuộc những tình tiết có ý nghĩa quyết định TNHS và hình phạt; Nhóm các tình tiết khác có giá trị chứng minh đối với tội vụ án.

Để nghiên cứu toàn diện những vấn đề phải chứng minh, cần phải nghiên cứu và làm sáng tỏ từng nhóm đối tượng chứng minh đối với loại tội phạm này.

- Nhóm một: Những vấn đề phải chứng minh thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm và các tình tiết định khung tăng nặng, định khung giảm nhẹ:

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội là những vấn đề cơ bản cần phải làm rò, thu thập đầy đủ các chứng cứ xác định người đó có hành vi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hay không. Những vấn đề chứng minh nằm trong nhóm các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm chứng minh về khách thể, chứng minh về mặt khách quan, mặt chủ quan, chứng minh về chủ thể của tội phạm. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT phải thu thập đầy đủ tất cả chứng cứ liên quan đến việc xác định sự việc xảy ra có hay không có dấu hiệu tội phạm, theo điều, khoản nào của BLHS. Khi đã xác định có tội phạm xảy ra thì phải xác định ai là người phạm tội, họ có năng lực TNHS hay không, lỗi, đông cơ mục đích, tính chất mức độ thiệt hại như thế nào? Vụ án có đồng phạm, phải xác định vai trò, vị trí từng người trong đồng phạm…Thu thập chứng cứ để trả lời cho các câu hỏi trên, là cơ sở để xác định người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đủ yếu tố cấu thành tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác được quy định trong BLHS, là cơ sở để ban hành quyết định khởi tố vụ án khởi tố bị can hoặc kết thúc điều tra được chính xác.

Như vậy, khi tiến hành chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải chứng minh đầy đủ các tình tiết thuộc yếu tố cấu thành của tội phạm. Các tình tiết này có ý nghĩa rất lơn đến việc định tội danh và truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

- Nhóm hai: Những vấn đề phải chứng minh nằm thuộc những tình tiết có ý nghĩa quyết định TNHS và hình phạt:

Trong quá trình chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, CQĐT, VKS mà chủ thể chính là ĐTV, KSV còn phải chứng minh những tình tiết liên quan đến quyết định miễn TNHS, miễn hình phạt cho bị can, bị cáo. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm của bị can, bị cáokhông có ý nghĩa xác định tội danh đối với người phạm tội trong vụ án. Tuy vậy, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức hình phạt trong phạm vi của khung hình phạt được Bộ luật Hình sự quy định đối với tội phạm đó.

Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cần làm rò bao gồm: Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được quy định tại Điều 51 – Bộ luật Hình sự (Gồm 22 tình tiết); Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 84 – Bộ luật Hình sự (Gồm 5 tình tiết); Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được quy định tại Điều 52 – Bộ luật Hình sự (Gồm 15 tình tiết); Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 85 – Bộ luật Hình sự (Gồm 6 tình tiết); Quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (Điều 54

– Bộ luật Hình sự);

Cùng với những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự còn phải chứng minh đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo, đây là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định khung hình phạt. Nhân thân của bị can, bị cáo là tổng hợp những yếu tố riêng biệt của bị can, bị cáo có quan hệ trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm bao gồm: tên, tuổi, tiền án, tiền sự, điều kiện sinh sống, giáo dục của họ... Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội không những có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể, xác định được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi đã xác định được nhân thân người phạm, qua đó có thể góp phần tìm ra các biện pháp giáo dục và cải tạo người phạm tội phù hợp. Bên cạnh đó, cũng giúp cho việc việc phòng ngừa và dự báo tình hình tộiphạm, góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm có hiệu quả.

- Nhóm ba: Nhóm các tình tiết khác có giá trị chứng minh đối với tội vụ án:

Ngoài những tình tiết bắt buộc chung trong hai nhóm nêu trên, CQĐT còn phải có trách nhiệm chứng minh những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án. BLTTHS quy định đối tượng chính minh trong Điều 85 là quy định chung cho tất cả các vụ án, nên trong từng vụ án cụ thể sẽ có những tình tiết khác có giá trị chứng minh trong vụ án cụ thể đó. Do vậy, những tình tiết này BLTTHS năm 2015 không liệt kê trong Điều 85 và Điều 416. Những tình tiết khác có giá trị chứng minh xuất hiện ở các vụ án cụ thể khác nhau, đó có thể là các tình tiết liên quan đến khởi tố theo yêu cầu bị hại, liên quan đến việc áp dụng biện pháp tư pháp, liên quan đến việc xử lý vật chứng, bồi thường thiệt hại…Vì thế, đây cũng là những tình tiết quan trọng thuộc về đối tượng phải chứng minh mà CQĐT phải làm rò khi chứng minh vụ án trong giai đoạn điều tra VAHS.

2.1.1.2. Quy định về giới hạn chứng minh

Giới hạn chứng minh có nghĩa là ranh giới của việc thu thập chứng cứ. Xác định ranh giới để đảm bảo việc thu thập, nghiên cứu chứng cứ ở mức độ nào là đủ để xác định sự thật của vụ án. Tuy nhiên, như thế nào là giới hạn đủ thì chưa có Điều luật nào quy định cụ thể về vấn đề này. Qúa trình xác định sự thật của vụ án được quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015: “…Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rò chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội” [20]. Muốn đảm bảo tính toàn diện thì phải xác định đúng đối tượng chứng minh, còn muốn đảm bảo đầy đủ thì phải xác định được giới hạn chứng minh. Tuy nhiên, Việc xác định giới hạn này luôn phức tạp, bởi lẽ nếu xác định giới hạn chứng minh quá rộng thì không tập trung làm rò được các tình tiết thuộc bản chất của vụ án, làm mất thời gian, chi phí, có thể vội vàng mà kết luận khi chưa giải quyết được vấn đề cần chứng minh, điều này rất dễ dấn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Nhưng nếu xác định giới hạn chứng minh quá hẹp thì dẫn đến thu thập không đủ tài liệu, bỏ sót các tình tiết có ý nghĩa, do đó khi kết luận cũng khó đảm bảo thuyết phục hoặc bỏ lọt tội phạm. Vì

vậy, việc xác định đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh có ý nghĩa quan trọng góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

Mặc dù quan trọng, nhưng Điều 85 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định những vấn đề phải chứng minh, còn không có Điều luật nào xác định giới hạn chứng minh. Điều 108 quy định về kiểm tra, đánh giá chứng cứ có đoạn “…Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự”. Tuy nhiên có thể thấy, đây là quy định mang tính khái quát, như thế nào là đủ thì không có quy định giải thích rò ràng.

Như vậy, giới hạn chứng minh yêu cầu CQĐT phải thu thập, làm rò các tình tiết ở mức độ đủ, cần thiết để chứng minh vụ án. Đối với mỗi vụ án khác nhau, số lượng chứng cứ thu thập cũng sẽ khác nhau để làm sáng tỏ một hay nhiều tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án.

Do BLTTHS không có quy định cụ thể về giới hạn chứng minh, trong giai đoạn điều tra VAHS, để xác định được vấn đề này, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thể dựa vào tổng thể những quy định của BLHS và BLTTHS cũng như những văn bản pháp luật liên quan, kết hợp với trình độ, kinh nghiệm, niềm tin nội tâm, tinh thần trách nhiệm để xác định những tài liệu, chứng cứ cần thiết phải được thu thập. Phải dựa vào từng vụ án cụ thể, không thể lấy một vụ án để áp dụng chung cho tất cả các vụ án. Trong giai đoạn điều tra VAHS, hoạt động chứng minh trong có vai trò quan trọng, mang tính định hướng, các chứng cứ thu thập được ở giai đoạn này có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, CQĐT cần phải xác định được đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh khi điều tra vụ án hình sự.

2.1.2. Quy định về chủ thể chứng minh

Theo quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội…” [20].

Khoản 2 Điều 108 Bộ luật TTHS quy định: “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án”.

Điều 15 và Điều 18 nêu trên chỉ quy định “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” mà không quy định cụ thể là cơ

Ngày đăng: 24/06/2022