Thực Hiện Chức Năng Kinh Tế Gắn Với Đảm Bảo Bình Đẳng Xã Hội Và Phát Triển Bền Vững.

có giá trị và hiệu quả to lớn khi nó bắt đầu từ chính cuộc sống, phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân và dễ dàng đi vào thực tiễn, biến thành lực lượng vật chất mạnh mẽ để cải tạo kinh tế - xã hội.

Quá trình nghiên cứu lý luận để xây dựng các mô hình, phương án quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta đang tồn tại một xu hướng xuất phát từ mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chưa có trong tiền lệ và khuôn mẫu từ trước, đó là trong những quyết sách và nhiều chính sách cụ thể trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế có biểu hiện sao chép một cách giáo điều mô hình kinh tế thị trường của các nước tư bản phát triển mà bỏ qua những nét đặc thù trong truyền thống và bản sắc của Nhà nước Việt Nam. Do vậy, việc đảm bảo nội dung khoa học, tính dân chủ, công khai của những quy trình khởi thảo, xây dựng và ban hành những chính sách và chủ trương quan trọng trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là một yêu cầu bắt buộc. Trong đó, không thể thiếu sự tham mưu, tư vấn chính sách của các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu, đặc biệt là cần tổ chức rộng rãi việc tham gia ý kiến của đông đảo các đối tượng cá nhân, tổ chức nhằm hiến kế những căn cứ về mặt lý luận, cũng như những giải pháp, phương án hiệu quả trong quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Hơn nữa, trong xu thế hội nhập, việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm về kinh tế thị trường ở một số nước sẽ giúp chúng ta có cách đánh giá, vận dụng và thực hiện hiệu quả chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

3.2.2. Thực hiện chức năng kinh tế gắn với đảm bảo bình đẳng xã hội và phát triển bền vững.

Vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đường lối phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa. Xét về

bản chất nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là nền kinh tế kiểu tư bản chủ nghĩa mà là nền kinh tế thị trường hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Sự định hướng đó đặt ra yêu cầu phải hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố bóc lột và phân hóa xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối, hài hòa, tạo sự tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước. Chính vì vậy, trong việc thực hiện chức năng kinh tế, Nhà nước cần phải điều chỉnh chính sách phân phối thu nhập, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với bình đẳng xã hội và phát triển bền vững.

Trong nền kinh tế thị trường, giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế và yêu cầu đảm bảo tính công bằng xã hội cũng như sự phát triển hài hòa của xã hội thường xuyên có sự mâu thuẫn. Kinh tế càng phát triển thì càng nảy sinh những vấn đề xã hội mà bản thân nền kinh tế không tự giải quyết được như các vấn đề thất nghiệp, đói nghèo, dịch bệnh, phân hóa xã hội...Tuy nhiên, trong sự phát triển kinh tế - xã hội giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội có mối quan hệ tương tác với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra của cải cho xã hội chính là điều kiện tốt nhất để thực hiện bình đẳng xã hội. Tăng trưởng càng cao, kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện để thực thi các chính sách công bằng xã hội. Ngược lại, phân phối công bằng sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.

Trước hết, cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng xã hội trong điều kiện thực tế của đất nước. Điều dễ nhận thấy là kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, tăng trưởng kinh tế có những tiến bộ đáng kể tuy nhiên khoảng cách giữa người giàu, người nghèo còn khá chênh lệnh. Do vậy, Nhà nước cần điều chỉnh lại chính sách phân phối thu nhập trên cơ sở mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước. Trong phân phối cần phát huy tác dụng của cơ chế thị trường, theo đó việc phân phối thu nhập như: tiền công, tiền lương, lợi tức, lợi

nhuận và tiền thuê tài sản đều được thực hiện bằng hệ thống giá cả thông qua quan hệ cung - cầu trên thị trường. Điều đó vừa đảm bảo công bằng trong phân phối, khuyến khích chủ sở hữu các nguồn lực bỏ vốn và tài sản vào sản xuất kinh doanh mà vẫn tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động, dựa trên hiệu quả kinh tế.

Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ để thực hiện vai trò điều tiết trong phân phối thu nhập như thuế, ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước và hệ thống an sinh xã hội. Trong điều kiện nước ta hiện nay, các đối tượng chính sách xã hội rất đa dạng, vì vậy hệ thống an sinh xã hội phải được phát triển mạnh, trong đó các chính sách an sinh cần hoàn thiện theo hướng huy động mọi lực lượng trong xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm. Bên cạnh đó coi trọng chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong cộng đồng giúp đỡ lẫn nhau.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội còn thể hiện chức năng của Nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công. Do vậy, Nhà nước cần tăng chi tiêu cho cả giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác, đồng thời đảm bảo cho mọi người được bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ đó. Về phương hướng này, theo chúng tôi, Nhà nước nên tạo điều kiện để khai thác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc hỗ trợ Nhà nước cung ứng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội, bởi: khu vực kinh tế tư nhân có thể tham gia trực tiếp vào cung ứng dịch vụ kết cấu hạ tầng để Nhà nước tập trung vào những hoạt động có lợi thế so sánh hoặc khu vực kinh tế tư nhân có thể tham gia gián tiếp thông qua việc đóng thuế và Nhà nước sẽ phải dành tỷ lệ lớn hơn trong ngân sách để đầu tư vào kết cấu hạ tầng và các dịch vụ công cộng nhằm đảm bảo tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội trong nền kinh tế thị trường.

Một vấn đề đặt ra đối với tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là tăng trưởng kinh tế cần phải đi đôi với việc phát triển

Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - 10

bền vững. Để duy trì tăng trưởng, Nhà nước có vai trò không thể thay thế trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Lý thuyết về kinh tế hiện đại đã khẳng định thất bại của thị trường trong việc bảo vệ môi trường bắt nguồn từ thực tế là sản xuất tư nhân gây ra tác động tiêu cực đối với môi trường, và chi phí xã hội không được phản ánh đầy đủ vào chi phí sản xuất nếu chỉ thông qua các lực lượng thị trường. Do đó, lượng ô nhiễm luôn có khuynh hướng vượt quá mức tối ưu hoặc các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác quá mức làm giảm tiềm năng tăng trưởng trong tương lai. Như vậy, tăng trưởng cao hiện tại chưa hẳn là đáng mong muốn bởi vì chất lượng cuộc sống thực ra có thể không được cải thiện nếu như phúc lợi vật chất có được từ tăng trưởng cao hơn không đủ bù đắp cho tổn hại do môi trường sinh thái bị hủy hoại. Thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường đã được Nhà nước ta quan tâm, nhất là sau khi Luật bảo vệ môi trường ra đời và gần đây là Luật bảo vệ đa dạng sinh học. Tuy nhiên tình trạng đốt phá rừng vẫn diễn ra nghiêm trọng; tài nguyên khoáng sản bị khai thác bừa bãi; không khí ở đô thị, nhất là các thành phố lớn bị ô nhiễm nặng; việc xử lý rác thải, chất thải chưa được thực hiện một cách hợp lý. Do vậy, chức năng của Nhà nước trong thời gian tới cần tiếp tục giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật, thuế, điều lệ hoặc chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên... để kiểm soát mức độ nguy hiểm đối với môi trường sinh thái. Bằng pháp luật, Nhà nước kịp thời xử lý thông qua các quy định hành chính, thậm chí là các quy định trong Luật hình sự về hành vi vi phạm môi trường của các chủ thể kinh tế. Bằng chính sách thuế Nhà nước can thiệp buộc tất cả các cá nhân, tổ chức hưởng lợi từ sản xuất và tiêu dùng đều phải trả toàn bộ chi phí làm giảm ô nhiễm môi trường thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiến hành tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách nhằm thu

hút đầu tư của toàn xã hội vào lĩnh vực môi trường, trước mắt là các hoạt động xử lý và tái chế chất thải, phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường...‌

3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam hiện nay.

3.3.1. Hoàn thiện chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.

Bản chất của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam quy định vai trò kinh tế của Nhà nước, cũng như các phương pháp và công cụ của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, các mệnh lệnh hành chính là công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước. Trong cơ chế thị trường, Nhà nước sử dụng các phương pháp kinh tế, vận dụng các quy luật kinh tế để quản lý, đảm bảo hiệu quả quản lý của phương pháp thông qua hệ thống các công cụ như quy hoạch, kế hoạch, chính sách mang tầm chiến lược.

Đổi mới công tác kế hoạch và quy hoạch thực chất là xác định lại chức năng của Nhà nước trong suốt quá trình dẫn dắt thị trường phát triển theo đúng mục tiêu đã định. Do đó một trong các nhiệm vụ quan trọng của công tác quy hoạch, kế hoạch là dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển.

Có thể hiểu kế hoạch hóa là một trong những công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm xác định phương hướng cơ bản phát triển kinh tế xã hội, hoạch định các bước đi và đề xuất các biện pháp cụ thể để hướng các hoạt động kinh tế vào việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Do đó, để kế hoạch hóa thực sự trở thành công cụ quản lý và hiệu quả cho Nhà nước thực hiện việc định hướng và hướng dẫn các hoạt động kinh tế, thì công tác kế hoạch hóa cần phải được đổi mới theo hướng sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác phân tích, đánh giá, dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội.

Trong cơ chế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế mở và hội nhập kinh tế quốc tế, công tác dự báo phải thực sự trở thành căn cứ quan trọng cho công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch. Trong điều kiện các yếu tố tác động đến thị trường thường xuyên biến động, các nhà hoạch định chính sách cần phải nghiên cứu, phân tích và nắm vững các diễn biến và dự đoán tình hình xảy ra trên thị trường nhằm hạn chế các rủi ro trong thực hiện mục tiêu, chiến lược đã đề ra. Cùng với việc tăng cường năng lực đối với các cơ quan dự báo ngành, vùng địa phương, cần chú trọng tới việc xây dựng và phát triển một số trung tâm dự báo quốc gia. Để làm tốt công tác dự báo sự phát triển kinh tế - xã hội yêu cầu đặt ra là phải hiện đại hóa hệ thống thông tin quốc gia về thị trường trong nước, cũng như thị trường nước ngoài, đồng thời chấn chỉnh hệ thống thống kê và phân tích kinh tế.

Thứ hai, cần khắc phục nhược điểm trong công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đó là ôm đồm quá nhiều mục tiêu, theo đó tập trung cho những mục tiêu hiệu quả và phát triển bền vững; cần bổ sung cho định hướng đổi mới cơ chế, chính sách đảm bảo thực hiện các mục tiêu, chiến lược đã được xác định. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội cần được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước.

Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nâng cao chất lượng quy hoạch bằng cách nâng vị trí pháp lý của văn bản ban hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lên tương đương với hình thức pháp lý ban hành văn bản kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm nhằm khắc phục tình trạng thiếu thống nhất và mất cân đối giữa quy hoạch chung của cả nước với quy hoạch vùng và quy hoạch các tỉnh, thành phố, giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng.

Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội 10 năm cần lược bỏ sự trùng lặp đối với các nội dung đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, thay vào đó là định hướng cho việc quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội các vùng, các ngành có vai trò chiến lược (những ngành, vùng không có vai trò chiến lược thì không cần quy hoạch). Những định hướng này có giá trị chỉ đạo đối với các cơ quan quản lý vùng, quản lý ngành trong việc xây dựng và lựa chọn phương án tối ưu phát triển vùng, ngành.

Quy hoạch phát triển các ngành phải được xây dựng trước một bước so với quy hoạch phát triển địa phương và vùng lãnh thổ; quy định rõ bằng một văn bản có giá trị pháp lý về mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý ngành ở Trung ương với các cơ quan quản lý vùng trong việc hoạch định quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch phát triển vùng, trong đó chú trọng tới cơ chế giải quyết mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và vùng.

Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải có căn cứ khoa học, có tầm nhìn dài hạn, thu hút sự đóng góp ý kiến của đông đảo nhân dân và được công khai hóa; tăng cường chất lượng các dự báo và các nghiên cứu về thị trường trong các dự án quy hoạch và tạo dựng khung khổ pháp lý nhằm phân công, phân cấp và thống nhất, phối hợp giữa các quy hoạch.

Đối với công tác xây dựng kế hoạch, cần tiến hành đổi mới và hoàn thiện theo hướng khắc phục tình trạng xây dựng kế hoạch chủ quan hay đơn giản, chung chung không tuân thủ các nguyên tắc của hoạt động kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường; đổi mới cách thức thông qua và phê duyệt kế hoạch làm cho kế hoạch thực sự trở thành công cụ hướng dẫn, điều hành có hiệu quả, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và người dân; đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện kế hoạch; tiếp tục hoàn thiện mối quan hệ giữa kế hoạch 5 năm và kế hoạch hằng năm. Trong đó chú trọng tới việc định hướng phát triển các nhân tố mới của nền kinh tế, cảnh báo về những xu hướng cần giảm thiểu đầu tư, phát triển trong

thời kỳ kế hoạch. Tuy nhiên vai trò của kế hoạch là có giới hạn thể hiện ở chỗ, kế hoạch chỉ có tính định hướng mà không thể đưa ra các chỉ tiêu định lượng bắt buộc như kế hoạch trong cơ chế cũ.

Bên cạnh đó, với vai trò chủ đạo của nền kinh tế và đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với tài sản thuộc khu vực kinh tế nhà nước, Nhà nước cần có kế hoạch tổng thể cho khu vực này theo hướng: Nhà nước cần tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động công ích, phát triển mạnh các lĩnh vực hạ tầng cơ sở; giữ các vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế như các ngành mũi nhọn, công nghệ cao... Đối với các ngành khác, Nhà nước có thể nắm cổ phần chi phối hay cổ phần tham gia mà không cần duy trì 100% vốn nhà nước trong các loại hình doanh nghiệp này; cần cụ thể hóa và giải quyết những vướng mắc trong việc thực thi những chính sách cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước và hoàn thiện chính sách phát triển các tổng công ty nhà nước, xóa bỏ chế độ cấp vốn từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang cơ chế tài chính mới là cơ chế thương mại thay cho cơ chế hành chính trước đây.

3.3.2. Hoàn thiện chức năng xây dựng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường.

Đường lối của Đảng về xây dựng hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ cơ chế bao cấp hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường đồng thời xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết chế tài chính, tiền tệ cũng như những phương tiện vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của xã hội, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu hiệu. Và cần phải tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế [3]. Quy định ấy tiếp tục dược khẳng định tại đại hội IX của Đảng với phương châm là “hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. [4]

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 01/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí