Thực Trạng Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Nhà Nước Và Bộ Máy Sản Xuất Kinh Doanh Đối Với Doanh Nghiệp Kinh Tế Quốc Phòng


- Đối với sản phẩm phục vụ QP, Nhà nước chỉ định DN cung cấp và đồng thời Nhà nước quy định giá bán các sản phẩm này.

- Đối với SPKD, BQP không can thiệp mà để DN tự quyết định. Xóa bỏ bao cấp qua giá, vận dụng cơ chế giá thị trường cho phần lớn hàng hóa và vật tư, áp dụng tỉ giá hối đoái linh hoạt theo sát với thị trường, thực hiện cơ chế lãi suất dương, xóa bỏ độc quyền thương mại

- Các DN KTQP cung cấp các mặt hàng thiết yếu phải thực hiện mua bán theo giá chuẩn và khung giá của Nhà nước. Một số sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi DN KTQP đóng chân trên địa bàn chiến lược hoặc vùng sâu, vùng xa, Nhà nước vẫn tiếp tục trợ giá.

Kết quả của những đổi mới trong chính sách giá so với cơ chế cũ đã góp phần huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của DN, của người tiêu dùng và của Nhà nước.

2.2.3. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và bộ máy sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

2.2.3.1 Về bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Theo nghĩa rộng, bộ máy QLNN đối với DN nói chung bao gồm cả ba bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đối với DN KTQP, Nhà nước xác định các cơ quan QLNN có thẩm quyền trong các ngành, lĩnh vực chức năng để quản lý DN theo quy định của pháp luật. Chủ thể trực tiếp quản lý DN KTQP là BQP; ngoài ra còn một số cơ quan QLNN thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực đối với DN KTQP theo thẩm quyền, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội…

Bộ máy QLNN đối với DN KTQP gồm nhiều cơ quan khác nhau phối hợp với nhau (xem sơ đồ 2-1).


Về mặt nguyên tắc, DN KTQP Việt Nam là DNNN do Chính phủ (hoặc ủy quyền cho BQP) thành lập và quản lý. Tuy nhiên BQP không thể quản lý trực tiếp tất cả các DN này, mà phân cấp quản lý cho các cơ quan cấp dưới BQP để quản lý một số DN. Hiện nay, theo phân cấp của BQP, những DN KTQP quan trọng và quy mô lớn trực thuộc sự quản lý cấp Bộ, còn lại thuộc sự quản lý cấp Tổng cục, Quân khu, Quân chủng ….

Về lĩnh vực chuyên môn, BQP uỷ quyền cho các cơ quan có chức năng QLKT, chủ yếu là Cục Kinh tế, Cục Tài chính, Cục Kế hoạch và Đầu tư thuộc BQP để chỉ đạo nghiệp vụ đối với các DN KTQP. Cục Kinh tế BQP là bộ máy được ủy quyền và chịu trách nhiệm QLNN trực tiếp đối với các hoạt động SXKD của hệ thống DN KTQP; Cục Tài chính BQP được uỷ quyền quản lý về vốn và tài sản nhà nước tại DN. Cục Kế hoạch và Đầu tư quản lý hoạt động đầu tư phát triển.

Như vậy chủ thể QLNN đối với DN KTQP rộng và phức tạp hơn so với DN dân sự bởi có nhiều cấp, nhiều Bộ ngành trực tiếp can thiệp công việc SXKD hàng ngày của DN KTQP, dẫn đến khó phối hợp chính sách một cách hiệu quả; hơn nữa quy định và thủ tục hành chính trong QLNN đối với DN KTQP thường quá chặt chẽ, đôi khi gây rườm rà, chồng chéo và thậm chí bỏ sót. Cơ chế Bộ chủ quản, cấp chủ quản đang gây khó khăn cho DN KTQP. Điều này cho thấy các cơ quan QLNN đối với DN KTQP cần được tổ chức lại, cải cách các thể chế hành chính – quân sự đối với DN theo hướng tạo thuận lợi hơn cho DN hoạt động, đồng thời vẫn giữ nghiêm sự lãnh đạo của Quân ủy trung ương và BQP đối với DN KTQP.


Quốc hội


Chính phủ


DN trực thuộc

Bộ khác

Tổng cục, quân khu,..

DN trực thuộc

Bộ Quốc Phòng

Cục Kinh tế

Cục Tài chính

Cục Kế hoạch & Đ.tư


Sự lãnh đạo

Sự hướng dẫn chuyên môn


Sơ đồ 2-1. Bộ máy QLNN đối với DN KTQP ViệtNam


Yếu tố có tính chất quyết định trong bộ máy QLNN đối với DN KTQP là đội ngũ cán bộ làm việc trong bộ máy này, trực tiếp là cán bộ Cục Kinh tế và Cục Tài chính BQP. Họ có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, tuy nhiên phần lớn họ là sĩ quan quân đội chưa có nhiều kinh nghiệm về QLKT, thương mại, đầu tư, tài chính, hội nhập kinh tế chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về QLNN đối với DN hoạt động trong cơ chế thị trường và bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.


Theo kết quả điều tra thì 57/150 người được hỏi (chiếm tỉ lệ 34,6%) cho rằng bộ máy QLNN đối với DN KTQP hiện tại chưa hợp lý về chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm; giá trị trung bình của biến số


X 23

= 2,95

là không cao. Số lượng và chất lượng cán bộ QLNN đối với DN KTQP cũng

chỉ đáp ứng yêu cầu ở mức độ dưới trung bình với


X 24

=2,76. Đó là những

con số thể hiện sự đánh giá khách quan nhưng không khả quan, đòi hỏi BQP cần tiếp tục hoàn thiện bộ máy QLNN đối với DN KTQP, đồng thời thực hiện các chương trình đào tạo cán bộ phù hợp và hiệu quả hơn. Đa số những người được hỏi đều khẳng định rằng, việc BQP thực hiện chức năng QLNN đối với DN KTQP là hoàn toàn hợp lý. Điều này càng cho thấy sự cấp thiết phải hoàn thiện bộ máy QLNN đối với DN KTQP để phù hợp với sự thay đổi cơ chế quản lý trong bối cảnh thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế .

2.2.3.2 Về mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng

Trên cơ sở các quyết định của Nhà nước, BQP quyết định sắp xếp, đổi mới, áp dụng mô hình tổ chức SXKD phù hợp cho DN KTQP. Cụ thể:

Các quyết định QLNN về sắp xếp đổi mới DN trong quân đội

Trong những năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định có liên quan về sắp xếp đổi mới DNNN trong quân đội như:

- Quyết định số 95/2005/QĐ-TTg ngày 08/5/2005 về việc phê duyệt phương án điều chỉnh sắp xếp, đổi mới công ty nhà nước thuộc BQP;

- Quyết định số 339/QĐ- TTg ngày 31/3/2008 Phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới DN 100% vốn nhà nước thuộc BQP giai đoạn 2008- 2010;

- Quyết định số 1715/QĐ- TTg ngày 26/10/2009 Phê duyệt Đề án đổi mới QLNN đối với các DN theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu và điều chỉnh quản lý, hoạt động, nâng cao hiệu quả DNNN khi thực hiện cam kết gia nhập WTO;


- Văn bản số 84/TTg đổi mới DN ngày 04/01/2010 về việc điều chỉnh phương án sắp xếp, đổi mới DN trực thuộc BQP và các văn bản khác.

Để triển khai thực hiện các quyết định của Chính phủ, BQP đã thành lập Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DNQĐ. Ban này thường xuyên được kiện toàn, hoạt động có kết quả nhằm thúc đẩy việc sắp xếp, đổi mới các DN đạt tiến độ quy định. Thực hiện các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 5 năm qua từ 2006- 2010, BQP đã ban hành 01 Chỉ thị, 05 Thông tư, và nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN trong quân đội trong đó có DN KTQP.

Tình hình thực hiện sắp xếp, đổi mới DN [10], [8]

BQP đã tập trung chỉ đạo sát sao việc thực hiện kế hoạch sắp xếp, đổi mới hệ thống DN quân đội theo đúng nội dung, tiến độ đã được phê duyệt. Trong đó:

- Về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DN KTQP, BQP không áp dụng hình thức này.

- Về thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản DN KTQP: Nhà nước đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn các quy trình, thủ tục phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN KTQP thực hiện; về cơ bản được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Riêng phá sản DN hầu như không thực hiện được đối với những DN lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Một số DN sau sáp nhập, hợp nhất, về tổ chức chỉ như một phép cộng về quy mô, chưa thực sự trở thành một chỉnh thể thống nhất để hỗ trợ nhau nâng cao năng lực cạnh tranh; về quản lý điều hành DN thì vẫn tỏ ra lúng túng, chưa thực sự năng động sáng tạo trong việc mở rộng quy mô sản xuất, tạo việc làm, khai thác các nguồn lực, do vậy SXKD chậm phát triển.


- Về chuyển thành công ty TNHH một thành viên: Trong quá trình thực hiện, về cơ bản không gặp phải khó khăn vướng mắc, tuy nhiên việc ban hành Nghị định số 25/2010/NĐ-CP chuyển công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên thay thế Nghị định số 95/2006/NĐ- CP chậm so với kế hoạch thực hiện chuyển đổi DN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nên mô hình tổ chức quản lý trong công ty TNHH một thành viên còn có sự vận dụng cho phù hợp với đặc thù QP và đặc điểm cụ thể của từng DN

- Về CPH: BQP đã tích cực triển khai thực hiện CPH các DN và đơn vị phụ thuộc DN thành các công ty cổ phần theo đúng hướng dẫn và quy định của Nhà nước. Kết quả của việc thí điểm CPH và chuyển đổi các công ty quân đội sang tổ chức, hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đều cho thấy đây là những mô hình tổ chức DN có hiệu quả, vừa giải quyết khó khăn cho DN, giúp DN duy trì, phát triển được sản xuất, vừa tạo được môi trường pháp lý cho DN thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các DN khác trên thị trường. Tuy nhiên tiến độ CPH còn chậm, hầu hết các DN từ khi có quyết định triển khai CPH đến khi hoàn thành thời gian kéo dài từ 1 năm rưỡi đến 2 năm. Quản trị trong các DN đã CPH chưa thực sự đổi mới, vẫn mang dấu ấn của cơ chế cũ theo kiểu mệnh lệnh hành chính, còn lúng túng về phương pháp quản trị, lề lối làm việc và năng lực cán bộ. Tỉ lệ vốn nhà nước trong DN CPH cao nên chưa có sự thay đổi đáng kể trong tổ chức quản lý và điều hành DN.

Kết quả cụ thể sau khi sắp xếp các DN KTQP [8] (xem bảng 2-11 và phụ lục 2-2).

Mô hình TCT nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH một thành viên và Tập đoàn kinh tế đã được BQP quyết định áp dụng cho DN KTQP. Kết quả đã điều chỉnh cơ cấu giảm số DN thuộc đầu mối Quân đoàn, binh chủng, học viện, nhà trường.


Đến năm 2010 về cơ bản các DN KTQP Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn đã được thực hiện CPH theo chương trình CPH DNNN của Chính phủ. Các DN KTQP còn lại cần nắm giữ 100% vốn nhà nước đã được BQP quyết định chuyển thành công ty TNHH một thành viên. Như vậy về sở hữu của DN KTQP gồm công ty cổ phần và công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước. Về tổ chức gồm: tập đoàn, TCT và công ty. Về hình thức hoạt động gồm: công ty mẹ- công ty con và công ty độc lập [12]. Trong các DN KTQP chỉ có 1 Tập đoàn kinh tế nhà nước, đó là Viettel. Đây là một trong 10 tập đoàn kinh tế do Nhà nước thành lập và hiện là DN KTQP duy nhất hoạt động theo mô hình tập đoàn. Trong bối cảnh Viettel đã đi vào hoạt động được nhiều năm, Cục Kinh tế BQP đã đánh giá hiệu quả của việc hình thành Tập đoàn này. So sánh khi còn ở quy mô TCT, tỷ suất lợi nhuận và các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh của Viettel đều được cải thiện.

Bảng 2- 11. Kết quả sắp xếp đổi mới DN KTQP năm 2010


STT

Các hình thức chuyển đổi

Số lượng DN

Ghi chú

1

Công ty TNHH 1 TV 100% vốn nhà nước

17

xem phụ lục 2-2

2

Công ty chuyển đổi hoạt động theo hình thức công ty mẹ- công ty con

12

xem phụ lục 2-2

3

TCT hoạt động theo mô hình công ty mẹ-

công ty con

1

TCT Xăng Dầu QĐ

4

Tập đoàn kinh tế nhà nước

1

Viettel

5

DN KTQP thực hiện CPH,

12

xem phụ lục 2-2

6

DN KTQP sáp nhập,

7

xem phụ lục 2-2

7

DN KTQP giải thể,

3

phụ lục 2-2

8

DN KTQP chuyển về hạch toán phụ thuộc

3

phụ lục 2-2

9

DN KTQP phá sản

1

C.ty XD công trình 56

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh tế quốc phòng - 14

Nguồn: Tổng hợp của tác giả


Đánh giá tình hình thực hiện sắp xếp, đổi mới các DN KTQP [10],[8]

Những thành công:

Nhờ tập trung chỉ đạo sát sao quá trình thực hiện sắp xếp DN theo quy định của Luật DN và phương án sắp xếp được Chính phủ phê duyệt. Kết quả đã điều chỉnh cơ cấu DN giảm bớt số DN thuộc đầu mối cấp dưới.

Về cơ bản, các DN KTQP Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn đã được thực hiện CPH theo chương trình CPH DNNN của Chính phủ, nhờ đó đã tạo điều kiện cho DN huy động vốn từ xã hội để SXKD. Các DN sau CPH đều hoạt động có hiệu quả.

Việc sắp xếp, đổi mới DN KTQP đã gắn liền với nâng cao hiệu lực QLNN và quản lý của chủ sở hữu, đã tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất, nhờ đó có nhiều DN phát triển mạnh như: Viettel, TCT Tân cảng Sài Gòn, TCT Đông Bắc, Công ty TNHH một thành viên Đầu tư xây lắp và Thương mại 36…

Những hạn chế và nguyên nhân:

- Chưa tính đến một cách đầy đủ các căn cứ khoa học khi ra quyết định. Về nguyên tắc, chủ sở hữu DN KTQP là BQP có toàn quyền định đoạt các DN của mình, song sự định đoạt ấy phải tuân thủ các quy luật khách quan về sự vận động của DN trong nền kinh tế thị trường. Đáng tiếc là, quyết định về mô hình tổ chức DN KTQP vẫn còn chứa đựng những yếu tố chủ quan. Trong khi yêu cầu phải tiến hành thí điểm thận trọng, thì những quyết định này lại được triển khai đại trà trong một thời gian. Có nhiều trường hợp, quyết định hành chính được sử dụng thay cho quá trình vận động khách quan của DN, kinh tế thị trường.

- Tiến độ thực hiện chậm. Do công tác tổ chức sắp xếp lại DN KTQP là vấn đề mới, ít kinh nghiệm, lại là vấn đề có động chạm đến nhiều mặt của đời sống DN, đến lợi ích của một số bên hữu quan, nên việc bảo đảm tiến độ gặp khó khăn. Đặc biệt trong công tác CPH, có cơ quan cấp trên DN chưa tích cực

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí