Về Hoạt Động Điều Tiết Thu Nhập, Đảm Bảo Bình Đẳng Xã Hội, Khắc Phục Những Khiếm Khuyết Của Nền Kinh Tế Thị Trường.

việc phát triển thủy điện; tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, thực hiện theo cơ chế thị trường về giá bán điện, có chính sách trợ giúp các hộ nghèo. Đồng thời Nhà nước đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại, đồng bộ và ổn định, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng trong dịch vụ thông tin; tiến hành xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị, quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và quy chế về đô thị trên địa bàn cả nước.

Nhà nước tăng tỷ trọng đầu tư từ ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, đặc biệt là cho giáo dục và y tế.

Thời gian qua, chỉ tính riêng tổng đầu tư của ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước mà chủ yếu dành cho sự phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã tăng mạnh qua các thời kỳ. Thời kỳ 1996 - 2000 đạt gấp 4 lần thời kỳ 1991

- 1995, riêng 3 năm 2001 - 2003 đã tăng 11% so với thời kỳ 1996 - 2000.

Trong cơ cấu vốn đầu tư công cộng của kế hoạch 2001 - 2005, vốn ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước đã được hoạch định khá cao vào lĩnh vực khoa học và công nghệ (96% tổng đầu tư vào khoa học công nghệ), nông nghiệp (73% tổng đầu tư vào nông nghiệp), giáo dục đào tạo (73% tổng đầu tư vào giáo dục và đào tạo), y tế - văn hóa - xã hội (72% tổng đầu tư vào y tế, văn hóa, xã hội), giao thông và bưu điện (65% tổng đầu tư vào giao thông và bưu điện), đô thị và cấp nước (74% tổng đầu tư vào đô thị và cấp nước)...

2.1.4. Về kiểm tra, giám sát nền kinh tế.

Nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế, thời gian qua Nhà nước đã tập trung nâng cao chất lượng xây dựng, kiểm tra, thanh tra và giám sát việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực về kinh tế - xã hội. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc bất thường, đồng thời Nhà nước quy định chế độ kiểm tra riêng, chặt chẽ hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trên quy mô lớn hoặc kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế đặc thù (ngân hàng, bảo hiểm...) hay lĩnh vực kinh doanh

dễ phát sinh độc quyền hoặc ảnh hưởng đến môi trường sinh thá i. Về nội dung này trong chức năng kinh tế của Nhà nước gần như gắn chặt với việc đảm bảo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và đầu tư. Bởi lẽ để đảm bảo các điều kiện cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của thị trường, Nhà nước phải xây dựng thể chế, trong đó quan trọng là xây dựng hệ thống pháp luật quy định rõ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, trách nhiệm về hợp đồng kinh tế, thể chế hóa các hoạt động giao dịch ngân hàng, chứng khoán, đầu tư, kiểm toán, kế toán, chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, các vấn đề bảo hiểm và an sinh xã hội....Trên cơ sở đó Nhà nước mới có thể thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế một cách hiệu quả.

Trong thời gian tới, Nhà nước tiến hành nghiên cứu để hoàn thiện chế độ pháp lý về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước với các chủ thể kinh tế. Đó là tiến hành luật hóa thủ tục và thẩm quyền kiểm tra, thanh tra và giám sát của cơ quan Nhà nước đối với hoạt động của các chủ thể kinh tế theo hướng xác định rõ thẩm quyền của cơ quan nhà nước, nghĩa vụ của chủ thể kinh tế một cách cụ thể sao cho Nhà nước có thể kiểm soát đầy đủ những vấn đề cần thiết mà không làm cản trở quyền tự do kinh doanh.

Nhà nước tạo cơ chế để cho nhân dân và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước kiểm tra, giám sát lại đối với các cơ quan thực thi pháp luật, cũng như cơ chế nghiêm chỉnh thi hành và cưỡng chế thi hành đối với mọi công dân và các tổ chức kinh tế - xã hội. Điều này cũng cần phải được xây dựng trên cơ sở những quy định cụ thể chế độ thống kê, báo cáo trung thực. Cơ quan thanh tra, kiểm tra phải có đầy đủ thẩm quyền xử theo luật những hành vi vi phạm, ngược lại chủ thể kinh tế có quyền từ chối, khiếu nại, tố cáo những hành vi sai trái của cơ quan, nhân viên thực thi quyền thanh tra, kiểm tra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

2.1.5. Về hoạt động điều tiết thu nhập, đảm bảo bình đẳng xã hội, khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường.

Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Bên cạnh mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, Nhà nước còn phải thực hiện chức năng điều tiết thu nhập đảm bảo công bằng xã hội và khắc phục những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bắt nguồn từ mong muốn xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo hướng tới một xã hội công bằng. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, mục tiêu công bằng và bình đẳng xã hội mà chúng ta hướng tới đó là: đảm bảo công bằng về cơ hội việc làm, bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn lực phát triển và trong quan hệ kinh tế; đảm bảo công bằng về nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước và cho xã hội theo pháp luật; đảm bảo công bằng và bình đẳng về hưởng thụ các thành quả phát triển chung của đất nước thông qua các chế độ phúc lợi công cộng, các dịch vụ công kết hợp với chính sách xã hội dành ưu tiên cho các đối tượng người có công, các đối tượng thiệt thòi trong xã hội…

Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - 7

Thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, Nhà nước đã đặc biệt hướng tới chính sách điều tiết thu nhập nhằm khắc phục và hạn chế thấp nhất sự phân hoá xã hội. Phân phối thu nhập bình đẳng có thể mâu thuẫn với mục tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn và tăng trưởng nhanh hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm ở một số nước phát triển cho thấy, một bộ phận người giàu có trong xã hội không có xu hướng dành một phần thu nhập để tiết kiệm và đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ tiêu xài xa xỉ và đầu tư vào những lĩnh vực không đóng góp gì cho tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Ở nước ta, Nhà nước đã thực hiện các chính sách phân phối trong thu nhập như hệ thống thuế thu nhập lũy tiến, bảo hiểm xã hội, các chương trình phúc

lợi... và các hoạt động đó đã mang lại ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội cũng như tăng trưởng kinh tế, đó là:

- Các chiến lược nhằm nâng cao thu nhập và mức sống của nhóm dân cư có thu nhập thấp không chỉ làm tăng phúc lợi vật chất của họ, mà còn làm tăng năng suất và thu nhập của toàn bộ nền kinh tế nói chung.

- Tăng thu nhập cho người nghèo sẽ kích thích nhu cầu đối với các nhu yếu phẩm sản xuất trong nước, sẽ kích thích tăng đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo nhiều việc làm và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn.

- Sự phân phối bình đẳng sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo động lực mới cho sự phát triển. Ngược lại, bất bình đẳng quá lớn về thu nhập và tình trạng nghèo đói phổ biến sẽ là một trở ngại lớn cả về vật chất và tinh thần đối với tiến bộ kinh tế, tạo điều kiện cho những mặt trái của kinh tế thị trường xuất hiện, gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên đảm bảo phân phối công bằng cũng phải tuân thủ nguyên tắc phân phối theo yếu tố lao động và các yếu tố sản xuất dựa trên cơ chế thị trường: “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít”, “đóng góp như nhau hưởng thụ như nhau”. Để điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và để đảm bảo công bằng xã hội, trong những năm qua Nhà nước đã ban hành và sửa đổi nhiều luật thuế mới đảm bảo sự hài hoà lợi ích giữa ba chủ thể: người lao động - doanh nghiệp - Nhà nước, đó là: Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế xuất khẩu nhập khẩu, Luật ngân sách nhà nước, Luật thuế thu nhập cá nhân… góp phần tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, thúc đẩy đầu tư sản xuất và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương, trong đó cơ cấu tiền lương tối thiểu đã bao gồm cả phần tiền tệ hoá các phần phân phối gián tiếp trước đây ngoài tiền lương từ ngân sách cho người lao động như: nhà ở, tem phiếu,

lương thực, thực phẩm, chất đốt, thuốc chữa bệnh ... Tháng 10 năm 2004 Nhà nước đã thực hiện việc điều chỉnh hệ thống tiền lương, trong đó lương tối thiểu tăng lên mức 350.000 đồng/tháng; tháng 10 năm 2005 là 450.000

đồng/tháng; tháng 10 năm 2006 là 540.000 đồng/tháng và tháng 5 năm 2009 là 650.000 đồng/tháng. Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã hội với các đối tượng tham gia bảo hiểm lên tới 10 nghìn 200 tỷ đồng. Đây là nguồn vốn quan trọng để hỗ trợ các dự án phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.

Một trong những chính sách rõ nét nhằm đảm bảo bình đẳng xã hội là Nhà nước đã quan tâm đến chính sách xoá đói giảm nghèo và khuyến khích người dân làm giàu chính đáng. Chính sách xoá đói giảm nghèo của Nhà nước đã được triển khai trên bình diện rộng, trong đó nổi bật là việc giao đất, giao rừng cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài và không phải trả tiền sử dụng đất; việc cho vay với lãi suất thấp hoặc không lãi suất để người nghèo có vốn tạo công ăn việc làm; Nhà nước tài trợ trực tiếp cho các xã khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 400 - 600 triệu đồng/năm để làm các công trình phục vụ đời sống và sản xuất; mở ra các công trình giao thông, thuỷ lợi, trồng rừng để trực tiếp tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động nông nghiệp. Chính sách đã góp phần tích cực làm giảm tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước từ 12%/năm (2003) còn 8,3% (2004).

Các chính sách xoá đói giảm nghèo và khuyến khích người dân làm giàu chính đáng của Nhà nước đã tác động tích cực đến thu nhập thực tế của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Theo số liệu điều tra năm 2002, mức thu nhập bình quân theo đầu người của nhóm dân cư có mức thu nhập thấp tăng 8,2% so với năm 1999. Tỷ lệ đói nghèo giảm đi cả ở thành thị và nông thôn, mặc dù khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng mở rộng. Những chỉ số về mức độ đói nghèo và bất bình đẳng trong thu nhập được cải thiện rõ, tuy còn ở mức thấp và trung bình nhưng điều đó đã thể hiện sự cố gắng rất lớn

đối với một nước có nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển như nước ta.‌

2.2. Đánh giá về thực trạng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước.

2.2.1. Một số hạn chế, bất cập trong thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước.

Mặc dù quá trình đổi mới và phát triển đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng thực trạng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Thực tế là hiện nay đất nước đang phải đối mặt với thách thức tụt hậu so với thế giới và khu vực, nhiều trở lực và hạn chế đe dọa sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

2.2.1.1. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội còn nhiều khiếm khuyết: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội còn ôm đồm quá nhiều mục tiêu; Vị trí chính trị và pháp lý của quy hoạch thấp hơn so với kế hoạch; Công tác quy hoạch chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành Trung ương với các địa phương nên chất lượng công tác quy hoạch không cao, còn nhiều điểm vênh nhau giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, tỉnh, từ đó tính hiện thực khách quan của quy hoạch còn rất hạn chế, gây lãng phí lớn. Trong lĩnh vực kế hoạch hóa còn tỏ ra lúng túng trong việc xây dựng mô hình tổng thể và lộ trình cụ thể cho chương trình đổi mới kế hoạch hóa nhằm phát huy tính tích cực của cơ chế thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Kế hoạch hóa vẫn còn bị gò bó trong kế hoạch kinh tế nhà nước; chưa có kế hoạch tổng thể cho khu vực kinh tế nhà nước, còn hạn chế trong việc thể hiện vai trò định hướng toàn bộ nền kinh tế quốc dân của kinh tế nhà nước. Những cơ sở đảm bảo chất lượng của công tác kế hoạch, đặc biệt là công tác thống kê, kế toán, điều tra xã hội học, thông tin kinh tế, dự báo phân tích kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh kịp thời của các ngành sản xuất, kinh doanh và yêu cầu định hướng đúng đắn của quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

2.2.1.2. Hệ thống pháp luật về kinh tế và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước còn thiếu đồng bộ và bất cập so với thực tiễn. Nhiều đạo luật chưa được ban hành, thiếu pháp luật điều chỉnh những lĩnh vực quan trọng để điều tiết nền kinh tế thị trường như cạnh tranh, chống độc quyền, chứng khoán, kế toán, kiểm toán, thống kê, kinh doanh bất động sản...nên chưa tác động mạnh mẽ đến việc ngăn chặn, giảm thiểu mặt trái của cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật hiện hành còn thiếu tính hệ thống, nhất quán và phối hợp đã gây mâu thuẫn, chồng chéo và không ít cản trở trong quá trình thực hiện. Điều đó có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ quy trình xây dựng pháp luật. Ở nước ta việc xây dựng pháp luật thường đi theo một quy trình: Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Luật, Pháp lệnh; Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, Pháp lệnh. Sau khi có nghị định của Chính phủ, các Bộ lại được giao nhiệm vụ ra Thông tư hướng dẫn thi hành cụ thể. Như vậy cùng một vấn đề cần điều chỉnh phải thông qua bộ ba các văn bản (Luật hoặc Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư) với những quy định và mức độ điều chỉnh khác nhau, thường theo xu hướng văn bản ra sau đầy đủ và cụ thể hơn văn bản ra trước, mặc dù giá trị pháp lý thấp hơn. Điều đó còn dẫn đến hạn chế hiệu lực thi hành của văn bản có giá trị pháp lý cao, kéo dài thời gian thực hiện và giảm giá trị của văn bản pháp luật trong điều chỉnh các hoạt động kinh tế.

- Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật tồn tại ngay trong cùng một lĩnh vực cần phải điều chỉnh bằng pháp luật, chứ chưa nói đến thiếu đồng bộ giữa các lĩnh vực khác nhau. Điều đó sẽ hạn chế vai trò của pháp luật trong việc tạo ra môi trường thuận lợi tin cậy cho sự tồn tại và phát triển các quan hệ kinh tế thị trường. Ví dụ: Luật đầu tư nước ngoài được ban hành trong một thời gian dài, nhưng mãi đến năm 1995 mới ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước, làm hạn chế phát huy nguồn vốn tại chỗ trước khi thu hút đầu tư nước ngoài; Luật ngân sách Nhà nước quy định hệ thống ngân sách nhà

nước gồm 4 cấp (theo cấp hành chính), nhưng chỉ quy định về 4 cấp chi ngân sách, còn thu ngân sách lại chỉ có một cấp là cấp Trung ương với hệ thống Tổng cục thuế và Tổng cục Hải quan được tổ chức theo ngành dọc thuộc Bộ tài chính. Trong lĩnh vực khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, mặc dù Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp như xóa bỏ dần sự bao cấp của Nhà nước, sự bảo hộ của Nhà nước đối với sản xuất và mậu dịch trong nước, tiến tới chính sách một giá đối với những lĩnh vực có sự phân biệt giữa giá trong nước với giá áp dụng cho cá nhân và tổ chức nước ngoài và ban hành Luật cạnh tranh năm 2004. Tuy nhiên những văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể luật còn thiếu. Sự chậm trễ này là một trong những nguyên nhân khiến các tổ chức, cá nhân vẫn tiếp tục đòi kéo dài sự bảo hộ, bao cấp của Nhà nước mà không chú trọng việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thương trường.

- Hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng thường xây dựng sau khi xuất hiện các quan hệ xã hội, luôn bị động trước diễn biến phức tạp của các quan hệ kinh tế thị trường nên thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung. Thời gian qua, Nhà nước đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quan trọng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường như: Hiến pháp, Luật đất đai, Luật ngân sách Nhà nước, Luật thương mại, Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng, Các luật về đầu tư... cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, việc sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ của Nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh tế còn nhiều bất cập. Đó là việc vận hành các chính sách tiền tệ còn nhiều lúng túng, thụ động; hệ thống ngân hàng thương mại còn nhiều yếu kém trong việc huy động và phân bổ các nguồn tín dụng; ngân sách nhà nước tồn tại tình trạng thâm hụt, thất thu, cán cân thu, chi còn căng thẳng do nhu cầu chi quá lớn mà nguồn thu không thể đáp ứng kịp. [31]

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 01/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí