- Ủy ban do thủ tướng Chính phủ làm chủ tịch và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về các quyết định của mình và thành viên là các Bộ trưởng các Bộ có liên quan tới KH&CN;
- Ủy ban xem xét, phê chuẩn các đề xuất của Bộ KH&CN về chiến lược/qui hoạch/kế hoạch phát triển KH&CN quốc gia thay vì trước đây Bộ KH&CN phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các quyết định KH&CN của mình. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và các Bộ khác có vai trò tư vấn cho Ủy ban về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực KH&CN được phân công, từ đó có những đề xuất phương án phân bổ nguồn lực để thực hiện các mục tiêu KH&CN, mục tiêu ĐMCN cho doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể.
5.3.1.5. Nhà nước cần tăng cường năng lực kiểm soát các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi khi tiến hành các hoạt động ĐMCN:
Thứ nhất, Nhà nước cần giám sát chặt chẽ cam kết ĐMCN của doanh nghiệp khi được hưởng ưu đãi, đồng thời xây dựng các chế tài xử lý các doanh nghiệp khi không thực hiện cam kết; trong trường hợp tái diễn nhiều lần mà công nghệ sử dụng ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường gây hậu quả nghiêm trọng thì cần thiết phải tước giấy phép hoạt động, buộc phải giải thể doanh nghiệp.
Thứ hai, xây dựng các tiêu chí đánh giá tác động của chính sách ĐMCN đối với doanh nghiệp sau 3 năm thực hiện, từ đó bổ sung, điều chỉnh chính sách kịp thời, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, ngành nghề, địa phương, điều kiện phát triển kinh tế xã hội và xu hướng hợp tác quốc tế.
5.3.2. Nhóm giải pháp kinh tế nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN
5.3.2.1. Ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế cho ĐMCN của doanh nghiệp hiện hành trên cơ sở rà soát lại các văn bản pháp luật liên quan tới thuế, đảm bảo ưu đãi về thuế cho ĐMCN của doanh nghiệp phải công bằng, công khai, minh bạch, đồng thời phải đơn giản hóa các qui định, thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho doanh nghiệp có thể tiếp cận và hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi thuế của Nhà nước cho hoạt động ĐMCN.
Có thể bạn quan tâm!
- Mức Độ Nhận Biết Của Các Doanh Nghiệp Trên Địa Bàn Hà Nội Về Nội Dung Hỗ Trợ Trực Tiếp Cho Đmcn
- Tính Bền Vững Của Chính Sách Nhằm Thúc Đẩy Doanh Nghiệp Trên
- Bối Cảnh Quốc Tế Và Trong Nước Đối Với Việc Hoàn Thiện Chính Sách Nhà Nước Nhằm Thúc Đẩy Doanh Nghiệp Đổi Mới Công Nghệ
- Nhóm Giải Pháp Đào Tạo, Thông Tin, Tuyên Truyền
- Trần Ngọc Ca, (2011), “Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Việt Nam: Con Đường Công Nghệ” , Tạp Chí Kinh Tế Và Phát Triển, Tháng 3/2011.
- Nguyễn Quang Tuấn (2007), “Vốn Xã Hội Cho Phát Triển Khoa Học Và Công Nghệ Và Triển Vọng Cho Việt Nam”, Tạp Chí Chính Sách Kh&cn Số 14/2007.
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
Thứ hai, Nhà nước xây dựng hệ thống ưu đãi thuế nói chung và ưu đãi thuế cho ĐMCN nói riêng phải đồng bộ, có cơ cấu hợp lý nhằm khuyến khích và tác động mạnh tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, cần nghiên cứu xây dựng Luật thuế bảo vệ môi trường, đây là một sắc thuế áp dụng cho các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường nhằm hạn chế tiếp nhận công nghệ không thân thiện với môi trường vào Việt Nam.
Thứ ba, thiết lập kênh thông tin hai chiều thường xuyên giữa cơ quan quản lý nhà nước về thuế và doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp sẽ phản ánh nhanh, kịp thời những khó khăn, vướng mắc, cũng như đề xuất của doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục để được hưởng ưu đãi hay những bất cập về cơ chế ưu đãi thuế cho ĐMCN hiện hành; mặt khác, cơ quan quản lý thuế sẽ kịp thời hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp, đồng thời cơ quan quản lý thuế sẽ cải tiến, hoàn thiện, điều chỉnh cho phù hợp với mong muốn của doanh nghiệp.
Thứ tư, Nhà nước cần xác định thước đo hiệu quả của các ưu đãi thuế cho ĐMCN, tránh tạo ra cơ chế trợ cấp cho doanh nghiệp. Hiệu quả của ưu đãi thuế phải được xem xét dựa trên kết quả so sánh, khi thực hiện ưu đãi thuế cho hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp thì hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp có tăng lên không, qua đó Nhà nước thu lại được lợi ích tương xứng với các chi phí đã bỏ ra thông qua việc nộp thuế của doanh nghiệp; đồng thời, khi xây dựng chính ưu đãi thuế cho hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp, liệu có tạo ra một dạng trợ cấp thêm cho doanh nghiệp hay không và Nhà nước có cần bỏ tiền cho hoạt động ĐMCN không, mà hoạt động ĐMCN vẫn được doanh nghiệp thực hiện khi không có ưu đãi thuế cho ĐMCN. Nếu điều này xảy ra thì sự ưu đãi thuế của nhà nước sẽ không khuyến khích doanh nghiệp ĐMCN nhằm giảm sự thất bại thị trường và đem lại lợi ích cho xã hội, mà chỉ tạo ra sự hỗ trợ không cần thiết cho doanh nghiệp mà thôi (Tạ Doãn Trịnh, 2009). Hơn nữa, nhà nước cần đưa ra tỷ lệ thuế thấp cho các doanh nghiệp ĐMCN tiên tiến, công nghệ mới, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% xuống còn 15% cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ĐMCN trong vòng 3 năm (Kinh nghiệm
của Trung Quốc), doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiến tiến để tạo ra sản phẩm có khả năng xuất khẩu có thể được miễn thuế GTGT.
Thứ năm, hàng năm, cơ quan quản lý nhà nước về thuế báo cáo với Bộ Tài chính về số tiền đã ưu đãi cho doanh nghiệp và số tiền ưu đãi cho hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, từ đó có thể đánh giá được tính hiệu quả, hiệu lực trong việc thực thi chính sách ưu đãi thuế nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN theo tinh thần Nghị định 24/2007/NĐ-CP. Qua đó, Nhà nước sẽ nghiên cứu để xác định được tỷ lệ miễn, giảm thuế một cách hợp lý cho hoạt động ĐMCN đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Thứ sáu, trong thời gian tới, Nhà nước cần tích cực triển khai thực hiện lộ trình giảm thuế, chủ động đẩy mạnh hợp tác đa phương trong khu vực và quốc tế, đồng thời Nhà nước là cầu nối để thiết lập mạng lưới liên kết giữa doanh nghiệp, các viện nghiên cứu, các trường đại học nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể cho doanh nghiệp trong tiến trình ĐMCN, đặc biệt là các vấn đề liên quan tới thuế.
Thứ bảy, Nhà nước cho phép doanh nghiệp được hạch toán các khoản chi cho hoạt động ĐMCN vào giá thành sản phẩm, cho phép doanh nghiệp được khấu hao nhanh phần máy móc thiết bị nhằm rút ngắn thời gian hoàn vốn. Để làm được điều này, Nhà nước cần qui định rõ tỷ lệ % tối đa mà doanh nghiệp được phép hạch toán để chi cho hoạt động ĐMCN; đồng thời cho phép doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận thu được từ hoạt động ứng dụng kết quả dự án ĐMCN vào sản xuất trong thời hạn khoảng 3 năm. Ngoài ra, cần thực hiện các ưu đãi về thuế đất, thuế xuất, nhập khẩu và miễn thuế giá trị gia tăng cho các tổ chức nghiên cứu ra công nghệ mới và chuyển giao công nghệ do mình tạo ra.
5.3.2.2. Ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ
(i) Đối với tín dụng thương mại từ các tổ chức tín dụng và ngân hàng
Thứ nhất, về nguyên tắc Nhà nước cần thực thi chính sách tín dụng bình đẳng cho mọi doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước, đảm bảo công khai minh bạch, dễ tiếp cận đối với doanh nghiệp, linh hoạt đối với các tổ chức và ngân hàng thương mại. Để làm được điều này, Nhà nước cần:
- Khuyến khích thành lập các tổ chức thẩm định dự án độc lập, trong đó có thẩm định dự án đầu tư ĐMCN, tổ chức này sẽ cung cấp cho ngân hàng những thông tin cần thiết về dự án ĐMCN, cũng như tư vấn cho doanh nghiệp nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng vốn và tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại với tư cách là người cấp vốn: (1) Ngân hàng và tổ chức tín dụng thương mại thường không muốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập vay vốn, vì họ chưa có hoạt động tín dụng uy tín, trong khi đó cho vay đầu tư ĐMCN rất rủi ro nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu ĐMCN và/hoặc việc xác định sản phẩm đầu ra, đối thủ cạnh tranh, thị trường sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp không tốt; (2) doanh nghiệp muốn Ngân hàng và tổ chức tín dụng thương mại cho vay vốn thì lại phụ thuộc vào qui mô dự án ĐMCN, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ở hiện tại và quá khứ, phụ thuộc vào giá trị tài sản thế chấp (thông thường các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tài sản thế chấp không cao), trên cơ sở đó, Ngân hàng và tổ chức tín dụng thương mại sẽ xác định tỷ lệ % cho vay và các khoản vay này thường không đáp ứng được nhu cầu ĐMCN của doanh nghiệp về lượng tiền vay, thời gian vay và lãi suất vay.
- Trên cơ sở các thông tin của tổ chức thẩm định dự án ĐMCN độc lập, kết hợp với nghiệp vụ của ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại họ sẽ ra quyết định mức vay, thời gian vay, lãi suất vay, kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp và những điều kiện đi kèm trên cơ sở đáp ứng cao nhất nguyện vọng của doanh nghiệp phục vụ cho ĐMCN, chứ không đơn thuần là phụ thuộc vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp, đồng thời phù hợp với qui định pháp luật hiện hành về hoạt động tín dụng nhằm tạo cơ hội về vốn đầu tư cho doanh nghiệp ĐMCN.
Thứ hai, Nhà nước cần nâng cao chất lượng hoạt động của Ngân hàng, tổ chức tín dụng thương mại và khuyến khích đa dạng hóa các loại hình tín dụng, theo hướng mở rộng cho vay trung hạn và dài hạn đối với hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp nhằm tăng cường sự tiếp cận và lựa chọn của doanh nghiệp cho ĐMCN.
Thứ ba, để nâng cao chất lượng hoạt động của Ngân hàng và tổ chức tín dụng thương mại, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả đề án tái cơ cấu ngân hàng, khuyến khích ngân hàng, tổ chức tín dụng áp dụng công nghệ hiện đại để khai thác tối đa nguồn vốn trong dân và khuyến khích các hình thức thanh toán không sử dụng tiền mặt; đồng thời thường xuyên rà soát, bổ sung, chỉnh sửa kịp thời hệ thống quy chế nội bộ, điều chính mức lãi suất, mức phí hợp lý cho hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp trong từng giai đoạn gắn với quá trình phát triển kinh tế xã hội, quản lý rủi ro các hoạt động, đặc biệt là các hoạt động liên quan tới cho vay ĐMCN.
Thứ tư, khuyến khích thành lập các công ty cho thuê tài chính và hoàn thiện các văn bản pháp luật đối với hoạt động cho thuê tài chính; đây có thể được coi là hướng đi phù hợp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hạn chế về năng lực tài chính và công nghệ hiện nay. Đến nay, Việt Nam có khoảng 15 công ty cho thuê tài chính, các công ty này đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc trợ giúp các doanh nghiệp đầu tư, máy móc thiết bị, ĐCMN; các công ty cho tài chính cam kết mua thiết bị, dây chuyền công nghệ và các vận dụng khác theo yêu cầu của các doanh nghiệp thuê và giữ quyền sở hữu đối với sản phẩm cho thuê. Các doanh nghiệp thuê sử dụng tài sản cho thuê và thanh toán tiền thuê theo từng giai đoạn của thời gian thuê được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng, bên thuê không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê các doanh nghiệp thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo thỏa thuận, cho nên các doanh nghiệp có điều kiện ĐMCN sản xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng cách thuê công nghệ từ các công ty cho thuê tài chính.
(ii) Tín dụng ưu đãi tại các Quỹ phát triển cho đổi mới công nghệ
Thứ nhất, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động, qui chế hoạt động của các Quỹ phát triển KH&CN quốc gia và ban hành các thông tư, nghị định hướng dẫn hoạt động của Quỹ KH&CN cấp Bộ/ngành/địa phương theo Quyết định số 117/2005/QĐ-TTg ngày 27/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ; tuy nhiên đến nay,
các bộ/ngành/ địa phương còn lúng túng trong việc vận hành Quỹ này (Lê Xuân Bá và các tác giả, 2008). Vì thế, cơ cấu tổ chức quỹ có thể được hoàn thiện theo hướng sao cho không trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, không gây cản trở trong việc thực hiện hoạt động KH&CN và hướng tới các đối tượng được hưởng thụ từ chính sách ưu đãi. Cụ thể, cơ cấu tổ chức của quỹ có thể bao gồm:
- Hội đồng quản trị Quỹ, bao gồm các nhà khoa học đầu ngành về KH&CN, đại diện một số cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN và đặc biệt phải sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp mà đại diện là các hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiệp hội ngành nghề:
- Các Quỹ thành viên hoạt động độc lập, có qui chế tổ chức hoạt động riêng và phù hợp với hoạt động chung của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia. Giám đốc và các phó giám đốc quỹ thành viên phải là thành viên của hội động quản trị quỹ, trong đó một phó giám đốc có thể là đại diện cộng đồng doanh nghiệp; các Quỹ thành viên có thể hình thành các phòng/ban chức năng, chuyên môn phục vụ cho việc hoạt động của Quỹ.
- Bộ phận thẩm định của Quỹ, độc lập với các quỹ thành viên chỉ chịu sự điều hành của chủ tịch hội đồng quản trị Quỹ; bộ phận này bao gồm các chuyên gia đánh giá, thẩm định KH&CN trong nước, thậm chí có thể mời chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực KH&CN tham gia.
Thứ hai, Nhà nước cần xem xét tăng cường mức hỗ trợ vay không lãi cho giai đoạn R&D từ mức 30% như hiện nay lên mức 70% đến 80% (kinh nghiệm của Đức) cho tất cả các lĩnh vực liên quan tới ĐMCN của doanh nghiệp, chứ không nhất thiết phải phải nằm trong danh mục các dự án ĐMCN ưu tiên theo quy định của Bộ KH&CN, Chính phủ. Hơn nữa, qua khảo sát, các doanh nghiệp cho rằng mức 30% là thấp và doanh nghiệp phải huy động tới 70% còn lại/ tổng số vốn cho R&D là rất khó, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời hoạt động R&D là hoạt động mang tính rủi ro cao. Vì thế, mức tín dụng ưu đãi với lãi suất 0% của 30%/tổng số vốn đầu tư cho R&D hỗ trợ doanh nghiệp chưa đủ mạnh để kích thích doanh nghiệp đầu tư R&D tiến tới ĐMCN.
Thứ ba, Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay vốn, đáp ứng được 2/3 tổng số vốn vay cho ĐMCN (kinh nghiệm của Hà Lan), thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng, bởi vì Quỹ này giúp doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, cầm cố mà vẫn được vay vốn; tuy nhiên, các doanh nghiệp phải đảm bảo được những yêu cầu của Quỹ và phù hợp với pháp luật hiện hành.
Thứ tư, Nhà nước cần sớm ban hành hướng dẫn và xây dựng qui chế hoạt động để đưa Quỹ ĐMCN quốc gia đi vào hoạt động, Quỹ này phải hoạt động như một tổ chức tài chính và không gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi cho hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp. Sau đó, rà soát lại các hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN và Quỹ ĐMCN quốc gia sao cho hai quỹ này không được trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, thời đểm ưu đãi tín dụng:
- Quỹ ĐMCN quốc gia tập trung ưu đãi tín dụng cho doanh nghiệp để có thể thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phổ biến công nghệ ra thị trường; còn quỹ phát triển KH&CN sẽ tập trung ưu đãi tín dụng giai đoạn đầu của quá trình ĐMCN, đó là các hoạt động liên quan tới R&D của doanh nghiệp.
- Nhà nước cần có qui định rõ về việc Quỹ ĐMCN được phép huy động vốn từ xã hội cho hoạt động của Quỹ, cùng kết hợp với doanh nghiệp trong việc hoàn thiện công nghệ, đánh giá, lựa chọn, thích nghi, làm chủ công nghệ nhập, tiến tới cải tiến, sáng tạo ra công nghệ mới và sản phẩm mới.
- Nhà nước cần hoàn thiện các qui định và cho phép Quỹ phát triển KH&CN của Bộ/ngành/địa phương được cấp vốn từ ngân sách nhà nước và được sử dụng vốn không chỉ thực hiện hoạt động tín dụng ưu đãi cho ĐMCN, mà còn tài trợ cho các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động ĐMCN.
Thứ năm, đối với Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, nhà nước cần ban hành các qui chế đối với hoạt động của Quỹ, xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của quỹ, đồng thời cần mở rộng hoặc không hạn chế mức trích lập từ lợi nhuận trước thuế. Bởi vì hiện nay, Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp được trích lập vào chi phí quản lý doanh nghiệp do doanh nghiệp tự
xác định, nhưng không quá 10% thu nhập tính thuế hàng năm; đồng thời cần xem xét lại Quyết định 36/2007/QĐ-BTC vì Quyết định này chỉ cho doanh nghiệp sử dụng quỹ cho các hoạt động ĐMCN trong nội bộ doanh nghiệp, mà không được phép sử dụng để đầu tư ĐMCN ra bên ngoài.
Thứ sáu, Nhà nước hoàn thiện hành lang pháp lý và khuyến khích hình thành Quỹ phát triển KH&CN của các cá nhân, Quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể huy động từ các Quỹ này cho mục tiêu ĐMCN. Các quỹ này không những cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp ĐMCN mà còn có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp các dịch vụ tư vấn công nghệ, đào tạo và quản lý công nghệ.
Thứ bảy, các thủ tục hành chính xét duyệt để được hưởng ưu đãi tín dụng cho ĐMCN cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, mở rộng và khuyến khích các doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia, đổi mới hình thức thế chấp, tín chấp và bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp.
5.3.2.3. Hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Thứ nhất, Nhà nước cần rà soát và xác định những lĩnh vực được hỗ trợ kinh phí trực tiếp cho ĐMCN, các lĩnh vực này phải có tác động đáng kể tới tình hình phát triển KT-XH nói chung và KH&CN nói riêng:
- Cần tiếp tục đánh giá tình hình thực hiện Nghị định 119/1999/NĐ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp ĐMCN, Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg đối với các ngành công nghiệp ưu tiên, ngành công nghiệp mũi nhọn. Trên cơ sở đó, nhà nước nên hỗ trợ 100% kinh phí các đề tài, dự án nghiên cứu nhằm tạo ra các công nghệ mới, sản phẩm mới hoặc hoàn thiện các công nghệ từ kết quả nghiên cứu của các chương trình KH&CN nhà nước trước đó, đồng thời hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp tiếp nhận công nghệ đó vào sản xuất.
- Các dự án nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ do doanh nghiệp đề xuất mà trong nước chưa nghiên cứu được và để phục vụ ĐMCN cho chính doanh nghiệp đó, Nhà nước nên hỗ trợ một phần kinh phí (có thể đến 70%) nhằm kích thích doanh nghiệp tăng cường năng lực R&D đối với lĩnh vực công nghệ. Tuy nhiên, nhà nước cần thống nhất kế hoạch quản lý như mục tiêu cần đạt, tiến độ