CHƯƠNG 5
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
5.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước đối với việc hoàn thiện chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
5.1.1. Bối cảnh quốc tế
Thứ nhất, do tốc độ phát triển nhanh của KH&CN, làm cho vòng đời công nghệ ngắn lại, khiến nhu cầu ĐMCN của doanh nghiệp tăng. Vì thế, lợi thế so sánh cạnh tranh thuộc về các doanh nghiệp biết áp dụng các công nghệ mới thông qua ĐMCN và/hoặc các doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính, nhân lực tạo ra các phát minh, sáng chế về công nghệ thông qua hoạt động R&D, đây là cơ sở để ĐMCN thành công nhằm tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của thị trường, được thị trường chấp nhận.
Thứ hai, xu hướng hợp tác quốc tế tạo ra sự lưu chuyển dễ dàng về công nghệ giữa các quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho ĐMCN. Đây là cơ hội cho các quốc gia đang phát triển đi tắt, đón đầu vào công nghệ hiện đại nhằm thu hẹp khoảng cách về phát triển công nghệ; tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn cho các quốc gia đang phát nếu không có chính sách đào tạo nhận lực công nghệ, chuyển giao công nghệ, ĐMCN phù hợp sẽ tiếp nhận, đổi mới những công nghệ không thân thiện với môi trường, tiêu tốn nguyên vật liệu, tiêu tốn năng lượng, làm cản trở quá trình phát triển đất nước.
Thứ ba, sự phát triển công nghệ không đồng đều giữa các quốc gia, buộc các quốc gia đang phát triển phải nhập công nghệ từ các nước phát triển; từ đó làm ra tăng hoạt động ĐMCN ở các nước đang phát triển thông qua chuyển giao công nghệ, đồng thời các nước phát triển có điều kiện để ĐMCN hiện đại hơn. Nhìn chung hoạt động này được các quốc gia quan tâm, thể hiện ở các chính sách ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực KH&CN, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ, gia tăng đầu tư cho R&D, ĐMCN, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy quá trình ĐMCN.
Có thể bạn quan tâm!
- So Sánh Lợi Ích Giữa Các Hình Thức Ưu Đãi Của Chính Sách Kinh Tế
- Mức Độ Nhận Biết Của Các Doanh Nghiệp Trên Địa Bàn Hà Nội Về Nội Dung Hỗ Trợ Trực Tiếp Cho Đmcn
- Tính Bền Vững Của Chính Sách Nhằm Thúc Đẩy Doanh Nghiệp Trên
- Nhóm Giải Pháp Kinh Tế Nhằm Thúc Đẩy Doanh Nghiệp Đmcn
- Nhóm Giải Pháp Đào Tạo, Thông Tin, Tuyên Truyền
- Trần Ngọc Ca, (2011), “Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Việt Nam: Con Đường Công Nghệ” , Tạp Chí Kinh Tế Và Phát Triển, Tháng 3/2011.
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
5.1.2. Bối cảnh trong nước
Thứ nhất, Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), tham gia Khu vực mậu dịch tự do AFTA, thành viên Diễn đàn hợp tác kinh tế Á-Âu (ASEM), khối Hợp tác kinh tế Châu á – Thái Bình Dương (APEC) và là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là những cơ hội cho Việt Nam tiếp thu các tri thức công nghệ mới của thế giới, nâng cao tiềm lực KH&CN quốc gia, nâng cao trình độ R&D, thương mại hóa công nghệ, học tập kinh nghiệm của thế giới trong việc xây dựng, thực thi chính sách phát triển công nghệ, ĐMCN nhằm giải quyết các vấn đề KH&CN phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức cho Việt Nam trong việc tìm kiếm, đánh giá, lựa chọn công nghệ thích hợp, đồng hóa, thích nghi, cải tiến công nghệ nhập, sáng tạo ra công nghệ mới để nâng cao năng lực công nghệ nội sinh nhằm thu hẹp khoảng cách về công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới.
Thứ hai, Đảng, Nhà nước tiếp tục khẳng định KH&CN giữ vai trò then chốt để tạo bước đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; được thể hiện ở Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 (Quyết định 418/QĐ-TTg, 11/4/2012), v.v.
Thứ ba, Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổ mô hình tăng trưởng kinh tế, xây dựng nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực giá rẻ, tài nguyên không phát huy được lợi thế so sánh; vì thế, Nhà nước ưu tiên cho phát triển công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, đồng thời xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển KH&CN.
Tóm lại, phát triển KH&CN nói chung, ĐMCN nói riêng được Nhà nước đặc biệt quan tâm; đây là một trong các yếu tố có ảnh hưởng mạnh đến việc tạo ra hàng hóa có chất lượng cao và mang lại lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, để để có thể ban hành được chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN phù hợp, cũng như tổ chức thực thi có hiệu quả, hoàn thiện các chính sách đã ban hành thì Nhà nước cần chú ý tới các đặc điểm của bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên.
5.2. Quan điểm của Nhà nước nhằm hoàn thiện chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN, cũng như thực trạng ĐMCN và thực trạng chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN trong thời gian qua. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay thì cần thiết phải có các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN phù hợp, nhằm tạo những chuyển biến tích cực trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, cũng như tác động tích cực của các chính sách này sẽ ảnh hưởng trực tiếp và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Để làm được điều này trong thời gian tới, Nhà nước cần thực hiện theo các quan điểm sau:
- Thứ nhất, Nhà nước trước tiên là hỗ trợ các doanh nghiệp ĐMCN dưới dạng tiếp nhận máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ, sau đó sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp tự thực hiện hoạt động R&D để tiến tới ĐMCN. Trên thực tế, ĐMCN là hoạt động có mức độ rủi ro cao, đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, chậm thu hồi vốn, yêu cầu trình độ nhân lực cao nên doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực sự quan tâm; tuy nhiên, Nhà nước chỉ giữ vai trò xúc tác, điều phối, xây dựng các thể chế, tạo tiền đề cho đổi mới nhằm hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN thành công.
- Thứ hai, chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN phải gắn với việc nâng cao năng lực, trình độ công nghệ của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành nghề. Để có thể thực hiện được ĐMCN thành công thì yêu cầu nguồn nhân lực phải có trình độ tưng xứng với mức độ phức tạp và hiện đại của công nghệ; vì thế, Nhà nước cần phải có những chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng được yêu cầu trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp.
- Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ĐMCN, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính nhằm đẩy nhanh tiến độ ĐMCN. Để làm được điều này cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương trong việc ban hành các hình thức hỗ trợ, tuyên truyền, phổ biến
chính sách ĐMCN, đảm bảo chính sách được thông tin một cách công khai và đầy đủ đến doanh nghiệp; đồng thời cần tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, thu nhận thông tin phản hồi và đánh giá kết quả chính sách để kịp thời điều chỉnh.
- Thứ tư, ĐMCN phải là nhu cầu tự thân vận động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ sẵn sàng đầu tư ĐMCN và cân nhắc tới hiệu quả đầu tư khi họ phải quyết định giữa hai sự lựa chọn, đổi mới để tồn tại và phát triển hay không đổi mới sẽ bị phá sản; kinh nghiệm ở một số nước phát triển cho thấy, doanh nghiệp không đơn thuần chỉ là nơi tiếp nhận công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ, mà doanh nghiệp còn phải là nơi thực hiện các hoạt động R&D nhằm tạo ra công nghệ mới đáp ứng các nhu cầu ĐMCN của doanh nghiệp; qua đó sẽ tạo ra các giá trị gia tăng cao hơn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp trên thị trường. Với quan điểm này, Nhà nước khó hoặc không thể quyết định thay cho doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động ĐMCN, vì vậy, chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN cần phải tạo lập được môi trường bình đẳng, có tính cạnh tranh cao nhằm trợ giúp doanh nghiệp ĐMCN.
- Thứ năm, để tạo động lực và thúc đẩy đầu tư ĐMCN ở doanh nghiệp thì Nhà nước cần phải sử dụng đồng bộ các chính sách và có lộ trình. Chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN trong thời gian tới phải phù hợp, đồng bộ với tiến trình đổi mới KT-XH, cam kết WTO và thông lệ quốc tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chính sách nhà nước thời gian qua đã có những tác động tích cực đến hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, nhưng hiệu quả, hiệu lực của các chính sách chưa cao nên chưa tạo được môi trường cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải ĐMCN. Vì thế, trong thời gian tới Nhà nước cần đánh giá, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành các chính sách phù hợp hơn với tình hình và hoàn cảnh mới.
- Thứ sáu, từ nay đến năm 2020, Nhà nước tiếp tục đổi mới thể chế, tạo môi trường chính sách thuận lợi để thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN phù hợp với nền kinh tế thị trường, không phân biệt loại hình sở hữu trong việc hỗ trợ doanh nghiệp ĐMCN, nhằm tạo ra những chuyển biến cơ cấu ngành nghề tích cực, năng cao tiềm lực KH&CN, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Ngoài ra, Nhà nước xây dựng hệ thống chính sách ĐMCN cần có cơ cấu hợp lý nhằm khuyến khích và tác động mạnh tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp góp phần bảo đảm công bằng xã hội, phù hợp với nền kinh tế thị trường định, bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế tiếp nhận công nghệ lạc hậu, không thân thiện với môi trường vào Việt Nam.
5.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
5.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện môi trường thể chế nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
5.3.1.1. Thống nhất và thể chế hóa định nghĩa về công nghệ, bởi vì có sự khác biệt về quan niệm công nghệ trong Luật KH&CN (2000) và Luật Chuyển giao công nghệ (2006); đồng thời phải đưa ra định nghĩa ĐMCN trong các văn bản pháp luật, xây dựng bộ tiêu chí/chỉ tiêu đánh giá ĐMCN của doanh nghiệp làm tiền đề để Nhà nước hướng dẫn thực thi các chính sách và ban hành các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN:
Thứ nhất, mặc dù còn nhiều tranh cãi về khái niệm công nghệ (xem thêm mục 2.1.1.1), nhưng Luật được coi là văn bản có tính pháp lý cao sau Hiến pháp. Hai Luật này vẫn đang tồn tại song song và còn hiệu lực; vì thế, để có thể quản lý có hiệu quả các hoạt động liên quan tới công nghệ thì cần thiết phải có một định nghĩa về công nghệ mang tính thống nhất, tránh những xung đột có thể xảy ra trong quá trình thực thi chính sách pháp luật, trong hoạt động đánh giá, lựa chọn, chuyển giao công nghệ và các hoạt động hợp tác quốc tế về công nghệ.
Thứ hai, đến nay Việt Nam có rất nhiều các văn bản pháp luật được ban hành có nhắc tới “Đổi mới công nghệ” và gần đây (10/5/2011) Chính phủ phê duyệt “Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020”. Tuy nhiên, đổi mới công nghệ là gì thì cần được cụ thể hóa hơn nữa và khái niệm này cũng còn nhiều quan điểm khác nhau (xem mục 2.1.1.2); cho nên, để hạn chế tiêu cực trong việc thực thi chính sách thì cần thiết phải có định nghĩa ĐMCN trong các văn bản pháp
luật hoặc được định nghĩa trong các Luật liên quan tới hoạt động KH&CN như Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ hay Luật Công nghệ cao, đồng thời phải xây dựng tiêu chí/chỉ tiêu đánh giá hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp.
5.3.1.2. Rà soát các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, từ đó xây dựng lộ trình ĐMCN cho doanh nghiệp trên cơ sở nhìn trước công nghệ, buộc doanh nghiệp phải tiến hành ĐMCN nếu công nghệ sử dụng không đáp ứng được các yêu cầu về môi trường, chất lượng sản phẩm và ảnh hưởng tới lợi ích chung của xã hội. Để làm được điều này, Nhà nước cần:
Thứ nhất, ban hành các văn bản pháp luật về đánh giá trình độ công nghệ và thống nhất phương pháp đánh giá trên cơ sở phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hoạt động này phải được diễn ra thường xuyên hàng năm, vì thế các cơ quan ban hành chính sách quản lý nhà nước về ĐMCN cần kết chặt chẽ với doanh nghiệp để xây dựng được phần mềm đánh giá trình độ công nghệ, có thể thí điểm đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, sau đó sẽ nhân rộng ra các tỉnh thành ở Việt Nam. Từ đó, các cơ quan quản lý nhà nước về ĐMCN sẽ biết được trình độ công nghệ của từng địa phương, từng ngành nghề so với trình độ công nghệ của khu vực và thế giới; làm cơ sở để xây dựng lộ trình ĐMCN, buộc các doanh nghiệp phải ĐMCN theo từng giai đoạn cụ thể, phù hợp chiến lược/qui hoạch/kế hoạch phát triển của kinh tế xã hội nói chung và phát triển KH&CN nói riêng của Việt Nam, qua đó doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong hoạt động ĐMCN của mình.
Thứ hai, rà soát hệ thống các tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường có so sánh với chuẩn quốc tế, từ đó sửa đổi những tiêu chuẩn chưa phù hợp và bổ sung những tiêu chuẩn còn thiếu; đồng thời phải tăng cường hoạt động kiểm tra các sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp phải đáp ứng được các tiêu chí, tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm được nêu trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007). Mặt khác, hàng năm các cơ quản quản lý nhà nước phải tiến hành đánh giá tác động trong việc sử dụng công nghệ của các doanh nghiệp tới môi trường, kết hợp với trình độ công nghệ hiện tại của doanh nghiệp, sẽ cảnh báo doanh nghiệp, khuyến khích doanh
nghiệp ĐMCN hoặc ép buộc doanh nghiệp phải ĐMCN nếu muốn tồn tại; đồng thời Chính phủ cần xây dựng Luật thuế môi trường, làm cơ sở pháp lý buộc các doanh nghiệp phải sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, nếu không sẽ bị đánh mức thuế cao.
5.3.1.3. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các bộ/ngành/địa phương trong việc thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp trong hoạt động ĐMCN:
Thứ nhất, thuật ngữ “phối hợp” được nhắc nhiều trong các văn bản pháp qui về chức năng, nhiệm vụ quản lý KH&CN của Bộ KH&CN nói riêng và các Bộ khác nói chung; tuy nhiên, sự phối hợp này chỉ mang tính hình thức và/hoặc thụ động hoặc phức tạp hóa các mối quan hệ phối hợp (Nguyễn Thị Anh Thu, 2008). Vì thế, để làm tốt công tác phối hợp trong việc ban hành, thực thi chính sách ĐMCN của doanh nghiệp có hiệu quả cần phải huy động nhiều nguồn lực từ các cơ quan/tổ chức/doanh nghiệp/cá nhân tham gia; qua đó, cần phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch về quyền hạn, trách nhiệm gắn với quyền ra quyết định các quan quản lý nhà nước về ĐMCN từ Trung ương tới địa phương trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, tạo nên sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các các bộ/ngành/địa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ĐMCN.
Thứ hai, để có thể phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, tránh đùn đẩy trách nhiệm khi mục tiêu ĐMCN không đạt được, nhà nước cần điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ hiện nay giữa các Bộ có sự giao thoa trong việc phân bổ, cấp phát kinh phí, xét duyệt các đề tài/dự án liên quan tới ĐMCN như Bộ KH&CN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các bộ quản lý ngành khác. Ngoài ra, các địa phương cần chủ động phối hợp với các bộ/ngành/trung ương trong việc xây dựng qui hoạch/kế hoạch tổng thể phát triển KH&CN, từ đó định hướng và ban hành các chính sách địa phương nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN dựa trên lợi thế so sánh cạnh tranh và phù hợp với định hướng chung của đất nước.
5.3.1.4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về ĐMCN trong việc xây dựng, ban hành chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Bộ máy quản lý nhà nước về ĐMCN hiện nay được sắp xếp hỗn hợp hoặc theo ngành dọc là chủ yếu, tạo nên sự trùng lắp giữa các bộ trong việc quản lý các hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp; trong khi đó chưa có cơ quan nào đứng ra điều phối trực tiếp, chịu trách nhiệm trong việc xây dựng chiến lược/qui hoạch/kế hoạch ĐMCN cho doanh nghiệp. Vì thế, cần hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về ĐMCN theo hai hướng:
(i) trước mắt, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước hiện hành và (ii) tương lai, hình thành một bộ máy quản lý nhà nước về ĐMCN để ban hành các chính sách ĐMCN cho doanh nghiệp trên cơ sở thành lập Ủy ban KH&CN hoặc Ủy ban ĐMCN trực thuộc Chính phủ:
Thứ nhất, để hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về KH&CN hiện hành, Bộ KH&CN cần thành lập các bộ phận chuyên môn độc lập về KH&CN, nơi tập trung các chuyên gia có chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo bàn bản, chính qui, có khả năng làm việc độc lập, có khả năng phản biện khách quan để thực hiện tốt việc đánh giá công nghệ, đánh giá hoạt động KH&CN, xây dựng các định hướng công nghệ ưu tiên, tham mưu cho Bộ trong việc ban hành chính sách ĐMCN, thay vì giao nhiệm vụ cho Bộ KH&CN như hiện nay. Bộ KH&CN cần chuyển giao và phân cấp cho các bộ/ngành/địa phương quyền ra quyết định các chính sách phát triển KH&CN của ngành/địa phương, trong đó có chính sách ĐMCN cho doanh nghiệp trên cơ sở khung chính sách do Bộ KH&CN ban hành.
Thứ hai, các chính sách của Việt Nam ban hành chưa làm rõ được sự phối hợp giữa các bộ/ngành/địa phương, chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành động cụ thể; mỗi bộ/ngành có nhiều chiến lược/kế hoạch nhưng lại không xác định được lĩnh vực ưu tiên cụ thể (Kenichi Ohno, 2009). Vì vậy, để hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước nói chung và bộ máy quản lý nhà nước về ĐMCN nói riêng trong tương lai, Chính phủ nên thành lập một Ủy ban KH&CN độc lập hoặc Ủy ban ĐMCN trực thuộc Chính phủ.