động mạnh tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (điểm trung bình là 2.3782, độ lệch chuẩn 0.9019): có 19,33% doanh nghiệp đánh giá ở mức rất thấp, 30,25% ở mức thấp, 46,22% ở mức trung bình, 1,68% ở mức cao và 2,52% doanh nghiệp đánh giá ở mức rất cao.
Hình 4.14: Tính bền vững của chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp trên
địa bàn Hà Nội ĐMCN
Nguồn: Kết quả điều tra của nghiên cứu sinh (2012)
(ii) Tiêu chí BV4.2: đánh giá chung của cơ quan quản lý nhà nước về tính bền vững của chính sách nhà nước thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN
Theo các chuyên gia QLNN về KH&CN nói chung, ĐMCN nói riêng, chính sách nhà nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN trong thời gian vừa qua đã có những tác động tích cực:
(1) Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN đã tác động tới tính chủ động thực hiện các hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp trong thời gian qua; qua đó, từng bước góp phần thực hiện các mục tiêu của chương trình ĐMCN quốc gia theo Quyết định số 677/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, áp lực buộc các doanh nghiệp phải ĐMCN theo lộ trình ĐMCN là chưa cao nên chưa thực sự tạo nên thói quen chủ động, thường trực để doanh nghiệp tự tiến hành các hoạt động liên quan tới ĐMCN.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Của Các Doanh Nghiệp Trên Địa Bàn Hà Nội Về Chính Sách Nhà Nước Buộc Doanh Nghiệp Phải Tiến Hành Đmcn
- So Sánh Lợi Ích Giữa Các Hình Thức Ưu Đãi Của Chính Sách Kinh Tế
- Mức Độ Nhận Biết Của Các Doanh Nghiệp Trên Địa Bàn Hà Nội Về Nội Dung Hỗ Trợ Trực Tiếp Cho Đmcn
- Bối Cảnh Quốc Tế Và Trong Nước Đối Với Việc Hoàn Thiện Chính Sách Nhà Nước Nhằm Thúc Đẩy Doanh Nghiệp Đổi Mới Công Nghệ
- Nhóm Giải Pháp Kinh Tế Nhằm Thúc Đẩy Doanh Nghiệp Đmcn
- Nhóm Giải Pháp Đào Tạo, Thông Tin, Tuyên Truyền
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
(2) Chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó đã đem lại ảnh hưởng tích cực đối với xã
hội và môi trường như nâng cao năng lực nội sinh về công nghệ quốc gia, hạn chế việc nhập công nghệ lạc hậu, không thân thiện với môi trường vào Việt Nam, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý đồng bộ, đầy đủ cho hoạt động KH&CN nói chung và ĐMCN nói riêng.
Như vậy, qua đánh giá của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và đánh giá của các cán bộ, chuyên gia QLNN về tính bền vững của chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Ta thấy tính bền vững của chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN ở mức độ trung bình. Các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp trong thời gian vừa qua chưa thực sự quan tâm tới sự phát triển KH&CN của doanh nghiệp, chưa lấy doanh nghiệp là trung tâm để hình thành và ban hành các chính sách ĐMCN cho doanh nghiệp.
4.3.2. Đánh giá ưu điểm và nhược điểm của chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
4.3.2.1. Ưu điểm
Nhìn chung, các văn bản qui phạm pháp luật hiện nay đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối đầy đủ trong việc phân cấp, phân quyền quản lý từ Trung ương đến địa phương để có thể xây dựng, ban hành, thực thi, kiểm soát các chính sách nhà nước thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN một cách có hiệu quả. Cụ thể:
- Cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN đã thông thoáng hơn21 như nâng
mức chi cho các chuyên đề, đề tài nghiên cứu khoa học (nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực nghiệm), khoán kinh phí thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Nhà nước.
- Các hoạt động liên quan tới chất lượng sản phẩm, môi trường, ĐMCN ở doanh nghiệp đã được tăng cường như ban hành danh mục các công nghệ khuyến khích chuyển giao, hạn chế và cấm chuyển giao vào Việt Nam; đặc biệt, Bộ KH&CN đã cảnh báo cho các bộ/ngành/địa phương, doanh nghiệp Việt Nam tránh nhập khẩu công nghệ lạc hậu từ các doanh nghiệp Trung Quốc.
21 Thông tư 45/2001/TTLT-BTC-BKHCN, Thông tư 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN và Thông tư 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN.
- Cơ chế quản lý nhân lực KH&CN đã theo hướng mở rộng hơn quyền chủ động cho cán bộ KH&CN trong việc ký kết các hợp đồng nghiên cứu; xây dựng lộ trình phát triển các dịch vụ KH&CN cũng được thành phố quan tâm (hỗ trợ phát triển các tổ chức môi giới công nghệ, chế tạo thử nghiệm, thẩm định và giám định công nghệ); hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN cũng được nhìn nhận thích đáng (người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, các nhân nước ngoài được đóng góp xây dựng, lập Quỹ phát triển KH&CN tại Việt Nam nhằm đẩy nhanh tiến độ ĐMCN cho doanh nghiệp).
Tình hình ĐMCN của doanh nghiệp có chiều hướng gia tăng do sức ép cạnh tranh, cùng với đó Nhà nước đã ban hành nhiều ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ trực tiếp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Các chính sách này đã tạo điều kiện tương đối thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện hoạt động ĐMCN. Điều này cho thấy, chính sách kinh tế đã được hình thành một cách tương đối có hệ thống và đã trở thành chính sách điều tiết vĩ mô quan trọng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển KH&CN nói chung và ĐMCN nói riêng.
- Các ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ trực tiếp được ban hành dưới hình thức Luật, pháp lệnh nên đã tạo cơ sở pháp lý đảm bảo các chính sách kinh tế có thể đi vào cuộc sống, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện ĐMCN thành công, đồng thời phù hợp với nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất thử nghiệm nhằm đẩy nhanh tiến bộ công nghệ vào sản xuất và đời sống bước đầu có hiệu quả. Trên cơ sở hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp có điều kiện hoàn thiện công nghệ trước khi thương mại hóa với hình thức Nhà nước hỗ trợ kinh phí trực tiếp (có thể có thu hồi) trên cơ sở ký kết hợp đồng với doanh nghiệp.
Hoạt động đào tạo, thông tin, tuyên truyền nhằm nâng cao năng lực nhân lực công nghệ, nhận thức của doanh nghiệp về ĐMCN đã bước đầu được hình thành và có những thành tựu nhất định. Đặc biệt là các hoạt động trợ giúp đào tạo đội ngũ quản trị doanh nghiệp, truyền thông chính sách trên mạng internet.
4.3.2.2. Nhược điểm
Nhìn chung, chính sách tạo môi trường thể chế trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt là quá trình tiếp nhận, thích nghi, làm chủ công nghê và ĐMCN của doanh nghiệp; cũng như chưa có những chế tài pháp luật đặc biệt, đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động ĐMCN nếu muốn tồn tại và phát triển.
- Cơ chế phối hợp trong việc ban hành, thực thi, đánh giá chính sách ĐMCN cho doanh nghiệp còn chưa tốt (42,9% doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đồng ý với nhận định này). Cụ thể là chưa có cơ chế phối hợp giữa Bộ KH&CN với các bộ/ngành/địa phương trong việc thống nhất các nội dung về hoạt động KH&CN, cho nên nhiều địa phương đã không sử dụng hết kinh phí đã được phê duyệt. Đặc biệt từ khi có Luật Ngân sách (2002) và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các thông báo của Bộ KH&CN không còn có tính quyết định đối với địa phương, mà thay vào đó là Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố sẽ toàn quyền quyết định đối với các khoản chi ngân sách nhà nước cho hoạt động KH&CN của địa phương.
- Bộ máy QLNN cũng còn những bất cập nhất định, năng lực giải quyết của cán bộ QLNN về ĐMCN còn hạn chế (43,7% doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đồng ý với nhận định này), đồng thời Nhà nước chưa có chế tài đủ mạnh trong hoạt động nghiên cứu công nghệ có địa chỉ ứng dụng và sử dụng kết quả nghiên khoa học vào hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp có sử dụng ngân sách. Hơn nữa, Nhà nước hành chính hóa và luật hóa một cách cứng nhắc đối với các tổ chức R&D trong việc nghiên cứu tạo ra công nghệ mới.
- Chưa xây dựng được qui chế hoạt động bộ máy, tổ chức khai thác hạ tầng công nghệ phục vụ cho ĐMCN, đặc biệt là khai thác các phòng thí nghiệm trọng điểm cấp quốc gia; đồng thời chưa xây dựng đươc lộ trình ĐMCN trên cơ sở nhìn trước công nghệ buộc các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ lạc hậu, công nghệ không thân thiện với môi trường phải ĐMCN theo từng giai đoạn, lộ trình cụ thể.
- Chưa có cơ chế giám sát, đánh giá các doanh nghiệp được hưởng sau ưu đãi, đồng thời chưa ban hành được các văn bản qui phạm pháp luật thống nhất về đánh giá trình độ công nghệ. Đây là cơ sở quan trọng để từng bước loại bỏ các
doanh nghiệp sử dụng công nghệ có trình độ thấp, không đáp ứng được các yêu cầu về sản phẩm và môi trường.
Các chính sách kinh tế nói chung chưa đủ mạnh để thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Cụ thể, doanh nghiệp đầu tư ĐMCN không phải vì sẽ được ưu đãi mà xuất phát từ chính yêu cầu của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh và ngược lại khi yêu cầu của quá trình sản xuất, kinh doanh đòi hỏi phải ĐMCN thì những khó khăn khách quan chỉ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện ĐMCN chứ không ảnh hưởng tới quyết định thực hiện ĐMCN của doanh nghiệp.
- Mặc dù có nhiều văn bản pháp luật liên quan tới ưu đãi thuế, tín dụng nhằm khuyến khích các cơ quan R&D, các doanh nghiệp hoạt động nghiên cứu khoa học, cũng như ứng dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất, song hầu như các cơ quan, doanh nghiệp này cũng chưa đánh giá được tác dụng của các chính sách ưu. Đến nay chưa có một cơ quan quản lý nhà nước nào công bố số liệu thống kê về số tiền đã ưu đãi hàng năm là bao nhiêu và kết quả từ việc ưu đãi đã mang lại hiệu quả cho hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp như thế nào? Hầu như các chính sách mới chỉ dừng lại ở việc ban hành mà chưa tiến hành đánh giá được các tác động của chính sách đó đối với xã hội và doanh nghiệp.
- Để được hưởng hỗ trợ trực tiếp từ phía Nhà nước theo Nghị định 119/1999/NĐ-CP, các doanh nghiệp phải trải qua qui trình xét duyệt kéo dài (khoảng 1năm) và sau khi doanh nghiệp hoàn thành đề án thì mới được cấp kinh phí triển khai. Vì thế nó sẽ tạo ra độ trễ chính sách nhất định so với nhu cầu ĐMCN của doanh nghiêp, cho nên chưa thực sự tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp khi nộp hồ sơ xin tài trợ; đồng thời mức ưu đãi còn chưa cao.
- Chưa thiết lập được thước đo, tiêu chí đánh giá hiệu quả các ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ trực tiếp, đồng thời chưa qui định rõ tỷ lệ % tối đa mà doanh nghiệp được phép hạch toán để chi cho các hoạt động đầu tư ĐMCN.
Các hoạt động tư vấn, đào tạo cho doanh nghiệp ĐMCN còn rất khiêm tốn, đặc biệt tư vấn cho doanh nghiệp sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường; đồng thời chưa có phương thức đào tạo, thông tin, tuyên truyền hiệu quả trong việc
nâng cao nhận thức lợi ích của ĐMCN đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như tác động của nó tới lợi ích xã hội.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan Trung ương với địa phương còn chưa tốt trong việc đào tạo, tuyên truyền nhằm nâng cao trình độ, nhận thức về lợi ích của hoạt động ĐMCN đối với môi trường và sự phát triển đất nước.
- Mạng lưới các tổ chức tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về công nghệ còn chưa phát triển. Cho nên doanh nghiệp có thể thiếu các thông tin về công nghệ, đây là những rào cản ảnh hưởng tới việc ra quyết định ĐMCN của doanh nghiệp.
4.2.3.3. Nguyên nhân của những nhược điểm trên
(i) Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
Vấn đề tiếp cận chính sách ưu đãi của các doanh nghiệp còn hạn chế, đây là một trong những cản trở lớn cho doanh nghiệp khi thực hiện ĐMCN. Nguyên nhân của sự kém hiểu biết này là do doanh nghiệp chưa có kế hoạch đầu tư ĐMCN mang tính dài hạn nên chưa có động cơ nghiên cứu kỹ các nội dung chính sách ưu đãi, qui trình để được hưởng ưu đãi của Nhà nước hiện có.
Năng lực của doanh nghiệp thể hiện ở năng lực của nguồn nhân lực phục vụ cho ĐMCN và năng lực tài chính của doanh nghiệp nhìn chung còn nhiều hạn chế, nên quá trình tìm kiếm, đánh giá, lựa chọn công nghệ và huy động vốn đầu tư ĐMCN của doanh nghiệp chưa thực sự phát huy được hiệu quả.
(ii) Nguyên nhân từ phía Nhà nước
Việt Nam là nước đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, nhiều chính sách đang trong quá trình vừa làm thí điểm, vừa rút kinh nghiệm, đặc biệt là các chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Cho nên, quá trình ban hành, thực thi, đánh giá, kiểm soát chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN của Nhà nước cũng còn nhiều hạn chế. Các nguyên nhân có thể kể đến như:
- Thực trạng phát triển kinh tế còn hạn chế, tỷ lệ chi ngân sách của Nhà nước cho KH&CN nói chung, ĐMCN nói riêng còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực và thế giới. Từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ đầu tư cho KH&CN của Việt Nam
chiếm 2% tổng chi ngân sách hàng năm (khoảng 0,5% GDP) và mức đầu tư của xã hội, doanh nghiệp ngoài nhà nước khoảng 0,3-0,4% GDP. Trong khi đó, ở Trung Quốc khoảng 2,2% GDP, Hàn Quốc khoảng 4,5% GDP, mức chi bình quân của các quốc gia trên thế giới là 1,9% GDP, các quốc gia phát triển chi khoảng 3% GDP cho R&D (Bộ KH&CN, 2012).
- Các văn bản qui phạm pháp luật về ĐMCN chưa đồng bộ, giao thoa nhau. Cụ thể, thuật ngữ “công nghệ” chưa thống nhất trong các văn bản pháp luật, còn thuật ngữ “đổi mới công nghệ” được nhắc đến nhiều trong các văn bản pháp luật nhưng lại chưa được cụ thể hóa và chưa rõ được nội hàm; vì thế, có nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình thực thi chính sách, nên hiệu lực và hiệu quả của chính sách ĐMCN chưa cao.
- Mặc dù đã có những đối thoại nhất định với doanh nghiệp trong quá trình xây dựng, thực thi các văn bản pháp luật liên quan tới ĐMCN, nhưng quá trình đối thoại này là chưa đủ, còn mang tính hình thức nên hiệu quả thu được chưa cao; đặc biệt, có nhiều văn bản được xây dựng với kỳ vọng sẽ hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp ĐMCN, nhưng doanh nghiệp lại không biết rõ nội dung hoặc biết nhưng không sử dụng được. Vì thế, các doanh nghiệp đã thực hiện các hoạt động ĐMCN theo tính toán riêng của mình mà không bị phụ thuộc vào hệ thống chính sách ĐMCN do Nhà nước ban hành.
- Năng lực hoạch định, tổ chức thực thi chính sách ĐMCN của cơ quan QLNN còn hạn chế. Hơn nữa, công tác cải cách hành chính trong hoạt động KH&CN chưa thực sự phát huy tác dụng, còn rườm rà, phức tạp, nhiều thủ tục giấy tờ; chẳng hạn, muốn có kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN của năm 2012 thì đề tài phải có quyết định từ năm 2011. Tuy nhiên, đến năm 2012 mới có hội đồng chính thức xem xét; nếu đề tài không được chấp nhận vì một lý do nào đó thì Luật Ngân sách cũng không cho phép chuyển khoản tiền đó cho nhiệm vụ KH&CN khác mà phải nộp vào Ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, cơ sở hạ tầng công nghệ của Việt Nam còn hạn chế, chưa xây dựng
được nền văn hóa công nghệ công nghệ cao, thị trường công nghệ chưa thực sự phát
triển, nguồn cung công nghệ trong nước chưa nhiều, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ pháp lý, môi giới cho chuyển giao công nghệ còn khiêm tốn nên chưa tạo tiền đề cần thiết cho hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chương 4 của Luận án đã làm rõ được các nội dung sau:
- Thứ nhất, tổng quan được thực trạng ĐMCN của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ 2000 đến 2012.
- Thứ hai, làm rõ được thực trạng trình độ công nghệ, thực trạng đầu tư ĐMCN, thực trạng nhu cầu và định hướng ĐMCN của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội giai đoạn từ 2000 đến 2012.
- Thứ ba, làm rõ mục tiêu chính sách nhà nước, các chính sách bộ phận nhằm thúc đẩy doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội ĐMCN (chính sách tạo môi trường thể chế, chính sách kinh tế và chính sách đào tạo, thông tin, tuyên truyền) giai đoạn từ 2000 đến 2012.
- Thứ tư, Luận án đánh giá chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN (thông qua đánh giá của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội) dựa trên các tiêu chí đánh giá như tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính phù hợp, tính bền vững.
- Thứ năm, Luận án đánh giá các ưu, nhược điểm, cũng như nguyên nhân của các nhược điểm chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN trong giai đoạn từ 2000 đến 2012.