Chính sách huy động nguồn tài chính để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (nghiên cứu trường hợp tỉnh Hải Dương) - 4

bám sát chương trình, mục tiêu của Chính phủ. Cụ thể, năm 2004, Chính phủ đã ban hành.

Một số chính sách, hình thức thu hút tài chính để đổi mới công nghệ như:

1.4.2.1. Vốn ngân sách nhà nước

NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của cả nước. Trong hệ thống tài chính, NSNN đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng hướng dẫn, chi phối và giám sát hoạt động của các khâu tài chính khác. Các khoản thu, chi NSNN đều có phạm vi mở rộng không chỉ ở trong nước mà còn cả nước ngoài. Thông qua chi NSNN, Nhà nước hướng dẫn, chi phối nguồn tài chính của các chủ thể khác, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mức độ, cơ cấu các nguồn tài chính của các chủ thể theo định hướng của Nhà nước. Bởi vậy, chi NSNN có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Chi NSNN là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước, nó ảnh hưởng lớn đến hoạt động của DNNVV cũng như toàn bộ nền kinh tế.

Vốn NSNN góp vai trò định hướng, kích thích phát triển sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhà nước sẽ hướng hoạt động của các doanh nghiệp đi theo quỹ đạo, mục tiêu mà Nhà nước mong muốn, từ đó sẽ hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và ổn định.

Vốn NSNN là một trong những biện pháp quan trọng nhất của Nhà nước thể hiễn nỗ lực can thiệp, thúc đẩy ĐMCN ở các doanh nghiệp nói riêng và tạo tiền đề phát triển KH&CN nói chung. Vốn NSNN chưa phải là nguồn lực chủ chốt, lâu dài nhưng có tính chất châm ngòi, khởi động, khơi thông thu hút các nguồn vốn khác, giúp cho doanh nghiệp tiếp cận được nhiều nguồn tài chính trong hoạt động ĐMCN.

Trong trường hợp doanh nghiệp được Quỹ hỗ trợ phát triển bảo lãnh vay vốn trung hạn và dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, doanh nghiệp sẽ được Quỹ hỗ trợ phát triển cấp bù khoản chênh lệch giữa lãi suất vay ưu đãi với lãi suất vay thông thường.

- Các chính sách khuyến khích khác

+ Doanh nghiệp khi sử dụng công nghệ là kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ do ngân sách Nhà nước đầu tư kinh phí (trừ các công nghệ thuộc bí mật về an ninh, quốc phòng và các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ) chỉ phải trả tiền thù lao cho tác giả đã nghiên cứu ra công nghệ đó. Mức tiền phải trả thù lao cho tác giả bằng 30% giá chuyển giao công nghệ theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ.

+ Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp tối đa không quá 30% tổng kinh phí thực hiện đề tài nghiên cứu tạo ra công nghệ mới thuộc những ngành nghề Nhà nước ưu tiên khuyến khích do doanh nghiệp thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan khoa học thực hiện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

+ Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xem xét và quyết định mức hỗ trợ lấy từ nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ.

+ Doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước được trích 50% thu nhập tăng thêm sau thuế do áp dụng công nghệ mới để đầu tư lại cho hoạt động khoa học và công nghệ và thưởng cho cá nhân, tập thể trong và ngoài doanh nghiệp có công trong việc nghiên cứu, tạo ra và tổ chức áp dụng công nghệ mới đó. Tỷ lệ giữa mức thưởng và đầu tư lại cho hoạt động khoa học và công nghệ do Giám đốc quyết định, nhưng mức thưởng không quá 60% số tiền được trích. Thời hạn trích tối đa không quá 03 năm kể từ khi có thu nhập tăng thêm.

Chính sách huy động nguồn tài chính để đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (nghiên cứu trường hợp tỉnh Hải Dương) - 4

* Quyết định số 1321/QĐ-TTg ngày 07 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng chính phủ

Quyết định Số 1231/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu: Đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, lành mạnh để các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp ngày càng

cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế.

Để thực hiện những mục tiêu này, Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp, trong đó có nhóm giải pháp thứ ba đề cập đến Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụ thể như sau:

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 119/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước tối đa 30% tổng kinh phí cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu của doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho phép các doanh nghiệp trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế vào Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp chi tiêu vào các hoạt động nghiên cứu, phát triển và được tính các chi phí chi tiêu cho các hoạt động nghiên cứu phát triển này vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp.

- Rà soát các quy định liên quan tới sở hữu công nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động đăng ký xác lập và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Cụ thể, sửa đổi Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp; sửa đổi Thông tư số 01/2008/TT- BKHCN về giám định sở hữu công nghiệp.

- Xây dựng thông tư hướng dẫn việc đăng ký, quản lý đối tượng quyền sở hữu công nghiệp được tạo ra từ kinh phí của Nhà nước nhằm khuyến khích hoạt động thương mại hóa và phát triển thị trường tài sản trí tuệ.

- Xây dựng quy định báo cáo thống kê tổng hợp về chuyển giao công nghệ; xây dựng quy định hướng dẫn nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ nhằm hình thành các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ.

- Xây dựng cơ chế hỗ trợ tra cứu thông tin khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể tiếp cận một cách có hiệu quả hơn nguồn thông tin sáng chế phục vụ nhu cầu sản xuất và đổi mới công nghệ.

- Ban hành văn bản thay thế Quyết định số 36/2007/QĐ-BTC ngày 16 tháng 5 năm 2007 của Bộ Tài chính về Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các tổ chức, cá nhân thành lập Quỹ phát triển khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ.

- Thí điểm xây dựng vườn ươm doanh nghiệp trong một số lĩnh vực ưu tiên, tập trung vào đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường.

1.4.2.2. Vốn tín dụng

Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận

Mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:

- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như: hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.

- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.

- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay ban đầu hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay).

Tóm lại, tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi.

* Tín dụng thương mại.

Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, doanh nhân cấp cho nhau không có sự tham gia của hệ thống ngân hàng. Hình thức phổ biến nhất của tín dụng thương mại là mua chịu hàng hóa..

Tín dụng bán chịu hàng hóa phát sinh là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, từ đó xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán, trong lúc một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng chưa có tiền mặt. Trong tình huống này, nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được giá trị sản phẩm của mình họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng, bởi lẽ người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn hàng hóa tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.

Tín dụng thương mại có hai loại gồm tín dụng thương mại không sử dụng thương phiếu và tín dụng thương mại có sử dụng thương phiếu (commercial paper).

- Tín dụng thương mại không sử dụng thương phiếu là việc người bán (người cho vay) bán sản phẩm cho người mua (người đi vay) bằng cách ghi số tiền bán chịu vào một tài khoản nhất định, còn người mua có nghĩa vụ hoàn trả cho người bán theo một cách nào đó, thường theo định kỳ. Loại tín dụng này thường áp dụng với những quan hệ thương mại thân tín, lâu dài hoặc quan hệ tín dụng giữa công ty mẹ và công ty con.

- Tín dụng thương mại có sử dụng thương phiếu đòi hỏi người bán chịu và người mua chịu theo dõi và kết thúc công nợ do bán chịu sản phẩm bằng thương phiếu. Đây là một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua khi món nợ đáo hạn. Thương phiếu là một chứng khoán cho người hưởng lợi quyền nhận một số tiền ghi trên thương phiếu vào một ngày nhất định trong tương lai đã được định trước ở hiện tại.

Tín dụng thương mại sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm phục vụ cho hoạt động ĐMCN nói riêng và sản xuất kinh doanh nói chung. Thủ tục tiến hành thương là nhanh, gọn, không mất nhiều thời gian của doanh nghiệp, rất cần thiết cho những đơn hàng ngắn ngày của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, bản thân tín dụng thương mại cũng có một số hạn chế nhất định. Lượng giá trị cho vay trong tín dụng thương mại bị hạn chế bởi chính khả năng tài chính của doanh nghiệp cho vay. Thời hạn cho vay thường ngắn hạn, hơn nữa khoản vay tín dụng thương mại cũng kém linh hoạt ở chỗ đối tượng cho vay là hiện vật chứ không phải giá trị. Phạm vi hoạt động của tín dụng thương mại cũng hẹp hơn các hình thức tín dụng khác, thường chỉ được tiến hành trong phạm vi các doanh nghiệp tin cậy lẫn nhau, đã làm ăn lâu năm với nhau, có mức độ tín nhiệm cao, quy mô tín dụng cũng chỉ được giới hạn trong khả năng vốn hàng hóa mà họ có.

1.4.2.3. Tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng tiền tệ. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp nhiều dưới hình thức hàng hóa, tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ, bao gồm tiền mặt và tiền tín dụng (bút tệ). Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, ngân hàng đóng vai trò là người đi vay và người cho vay.

Trong hệ thống tín dụng quốc dân, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có nhiều ưu việt hơn các hình thức tín dụng khác. Trước hết, tín dụng ngân hàng hoạt động trong phạm vi rộng hơn do mạng lưới chi nhánh phân bố khắp lãnh thổ và thu hút mọi chủ thể trong nền kinh tế. Thứ hai, tín dụng ngân hàng này mang tính chất linh hoạt hơn các hình thức tín dụng khác vì đối tượng vay mượn ở đây là tiền là vốn chứ không phải là vật tư, hàng hóa. Thứ ba, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện duy trì phát triển loại hình tín dụng khác bằng sự tham gia rộng rãi của tín dụng ngân hàng thông qua các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố, tái chiết khấu, tái cầm cố các giấy tờ có giá, và đặc biệt việc cho vay đối với nhà

nước làm tín dụng ngân hàng có vai trò tích cực trong thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ của nhà nước.

Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên 3 nguyên tắc sau:

- Tiền cho vay phải được hoàn trả sau một thời gian nhất định cả vốn lẫn lãi.

Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn huy động từ nền kinh tế. Nguyên tắc hoàn trả phản ánh đúng bản chất quan hệ tín dụng, tính chất của tín dụng sẽ bị phá vỡ nếu nguyên tắc này không được thực hiện đầy đủ. Nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh, các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp không được hoàn trả đúng hạn nhất định sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và thu nhập của ngân hàng. Do đó, khách hàng khi vay vốn phải cam kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn nhất định, cam kết này được ghi trong hợp đồng vay nợ.

- Vốn vay phải có giá trị tương đương làm đảm bảo.

Trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp, vì thế mọi dự đoán về rủi ro của ngân hàng chỉ mang tính tương đối. Trong môi trường kinh doanh như vậy, bảo đảm tín dụng được coi là một tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhằm bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh. Các giá trị tương đương làm bảo đảm có thể là: Vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố định của doanh nghiệp, số dư trên tài khoản tiền gửi, hoá đơn chuẩn bị nhận hàng hoặc có thể là cam kết bảo lãnh của một cơ quan khác thậm chí có thể là chính uy tín của doanh nghiệp trên thị trường và trong mối quan hệ quá khứ với ngân hàng. Giá trị đảm bảo là cơ sở cho khả năng trả nợ của khách hàng, cơ sở để hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng và là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất trong các điều kiện khác nhau.

- Cho vay theo kế hoạch thoả thuận trước (vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích).

Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Quan hệ tín dụng phản ánh nhu cầu về vốn và lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng

là cơ sở để doanh nghiệp tính toán các yếu tố hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời nó cũng là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thu nợ của ngân hàng.

Hiện nay, tín dụng ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng, nổi bật đối với hoạt động ĐMCN ở các doanh nghiệp: Nơi cung cấp các nguồn vốn ổn định, cả trung và dài hạn để các doanh nghiệp có nguồn lực tài chính mua sắm máy móc, dây truyền công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo thêm sản phẩm mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cũng có thêm chức năng tư vấn, cung cấp thông tin, chính sách để giúp doanh nghiệp lập phương án, chiến lược sản xuất kinh doanh. Suy cho cùng, thành công của doanh nghiệp cũng là thành công của các tổ chức tín dụng.

1.4.2.4. Cho thuê tài chính

Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa Bên cho thuê là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và Bên thuê là khách hàng.

Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập tại Việt Nam vào năm 1996 và hoạt động cho thuê tài chính cũng đã mạnh như ở các ngân hàng trước đó nhưng phải cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đến nay có trên 20 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động, bao gồm các công ty CTTC nhà nước, cổ phần, liên doanh và nước ngoài.

Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam (một tổ chức phi chính phủ được các công ty CTTC tự nguyện tham gia) được thành lập năm 2007, đến nay có 9 thành viên. Hiệp hội CTTC Việt Nam đã cùng với các công ty CTTC đánh giá tổng kết hoạt động thực tiễn, đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, Ngân hàng nhà nước những vấn đề để hoàn thiện các cơ chế, tạo điều kiện cho các công ty CTTC hoạt động tốt hơn.

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 25/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí