người giám hộ trong trường hợp tương tự để có thể bảo vệ quyền tài sản chính đáng của người phụ nữ trong những trường hợp trên.
Có thể nói rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định khá rõ về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung, nhằm bảo vệ khối tài sản chung, hạn chế những trường hợp phá tán tài sản chung hoặc thực hiện giao dịch dân sự ảnh hưởng đến khối tài sản chung, đến cuộc sống gia đình. Việc ghi nhận sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ là một bảo đảm quan trọng để thực hiện việc bảo vệ quyền về tài sản cho người phụ nữ, là điều kiện để người phụ nữ khẳng định vị trí của mình trong gia đình. Xét ở góc độ giới, đảm bảo bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của người vợ với người chồng chính là đảm bảo bình đẳng về quyền và cơ hội cho người phụ nữ, tạo điều kiện đảm bảo thực hiện bình đẳng giới thực chất giữa vợ và chồng trên thực tế.
2.1.1.4. Chia tài sản chung của vợ chồng
Chia tài sản chung của vợ chồng là một nhu cầu tất yếu trong cuộc sống gia đình ngày nay khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển. Xuất phát từ thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, và quan trọng hơn là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng nói chung và người vợ nói riêng trong quan hệ sở hữu tài sản, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng.
Theo pháp luật quy định có ba trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng: Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết trước.
Các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đều thể hiện sự bình đẳng giữa người vợ và người chồng đối với khối tài sản chung, bảo đảm được truyền thống đạo lý, do đó về nguyên tắc tài sản chung được "chia đôi".
* Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Đáp ứng nhu cầu của thực tế đặt ra, Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đìnhnăm 2000 quy định:
Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết [44].
- Với quy định trên thì người vợ có quyền thỏa thuận cùng chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong ba trường hợp sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Cách Thức Bảo Vệ Quyền Của Người Phụ Nữ Trong Quan Hệ Tài Sản Giữa Vợ Và Chồng
- Trong Việc Đăng Kí Quyền Tài Sản Thuộc Quyền Sở Hữu Chung
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ Chồng Đối Với Tài Sản Chung
- Bảo Vệ Quyền Của Người Phụ Nữ Trong Quan Hệ Sở Hữu Tài Sản Riêng Của Vợ, Chồng
- Các Hình Thức Thừa Kế Tài Sản Giữa Vợ Với Chồng Theo Quy Định Pháp Luật Hiện Hành
- Một Số Vấn Đề Về Tình Trạng Thực Thi Và Bảo Vệ Quyền Của Người Phụ Nữ Trong Quan Hệ Tài Sản Giữa Vợ Với Chồng
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Thứ nhất, để đầu tư kinh doanh riêng. Đây là một quy định tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, qua đó cũng nhằm ghi nhận và bảo đảm quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản với người chồng, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân - quyền này được bảo hộ bởi Hiến pháp - tạo điều kiện cho người phụ nữ nâng cao khả năng kinh tế của bản thân, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình.
Kinh doanh riêng của vợ hoặc chồng khác hẳn với đầu tư kinh doanh chung được quy định tại khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong cuộc sống khi vợ hoặc chồng có cơ hội và điều kiện kinh doanh riêng, họ có quyền đề nghị và được chia khối tài sản chung, thông qua đó để đảm bảo quyền của người vợ trong hoạt động kinh doanh riêng, mặt khác đây cũng là yếu tố thể hiện sự được bình đẳng thực sự giữa vợ và chồng; đảm bảo người vợ có cơ hội và điều kiện thực hiện quyền kinh doanh của mình.
Thứ hai, khi vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Nếu người vợ - người phụ nữ trong gia đình phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có khả năng tài chính hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ đó thì vợ có quyền thỏa thuận với người chồng chia tài sản chung để có điều kiện thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình.
Thứ ba, khi có lý do chính đáng khác. Xác định được lý do chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là khác nhau giữa các trường hợp cụ thể, nhưng thống nhất với nhau ở một tiêu chí: đều phải xuất phát từ lợi ích gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc người thứ ba. Căn cứ vào quy định này mà người vợ có thể bảo vệ khối tài sản chung, tránh tình trạng người chồng có hành vi lừa dối để chia tài sản chung một cách bất hợp pháp phục vụ cho mục đích cá nhân hoặc tẩu tán, phá tán tài sản chung.
Pháp luật hiện hành không quy định rõ lý do chính đáng khác là gì tuy nhiên lý do chính đáng khác có thể hiểu theo quy định tại mục 3 của Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn.
Hoặc lý do chính đáng khác có thể là người chồng có hành vi phá tán tài sản, người vợ trong gia đình xét thấy phải bảo vệ khối tài sản chung nên đề nghị chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại. Quy định này chưa được quy định trong pháp luật nhưng là cơ sở cần thiết để bảo vệ quyền tài sản của người phụ nữ, đảm bảo cho họ có quyền đề nghị chia khối tài sản chung để duy trì, ổn định cuộc sống của gia đình, của bản thân và đó cũng là vì lợi ích chung của gia đình.
Cả ba trường hợp được phép chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chỉ đặt ra trong trường hợp cần thiết, để đảm bảo cho gia đình ổn định, phát triển bình thường và chỉ được công nhận nếu việc chia đó không có mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản (khoản 2 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
- Bên cạnh việc quy định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 còn tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng trong phương thức chia tài sản chung của vợ chồng, không quy định cứng nhắc về phương thức chia bằng việc quy định mở "vợ
chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung". Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Người vợ, người chồng có thể thỏa thuận chia toàn bộ hoặc chia một phần tài sản chung. Chia toàn bộ tài sản chỉ đặt ra trong trường hợp đặc biệt như phải thực hiện nghĩa vụ tài sản quá lớn hoặc một bên yêu cầu chia khi bên kia có hành vi phá tán tài sản... Việc chia một phần tài sản chung có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với thực tiễn đời sống chung của vợ chồng, bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người vợ hoặc người chồng, mà vẫn đảm bảo được lợi ích chung của gia đình.
- Vấn đề hậu quả pháp lý trong việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được xem xét qua các khía cạnh sau:
Về quan hệ nhân thân, việc một hoặc hai bên vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, họ vẫn là vợ chồng của nhau, họ vẫn còn mọi quyền và nghĩa vụ chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau… như trước khi chia tài sản chung. Giữa họ vẫn tồn tại quyền và nghĩa vụ chung thủy với nhau, vẫn có đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình.
Về quan hệ tài sản:
Quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với phần tài sản được chia: Theo quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với phần tài sản đã được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia. Khoản 1 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định: "Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [10]. Quy định này đã tạo điều kiện cho phép người vợ trong gia đình có cơ hội kinh doanh trên thực tế mà không phụ thuộc vào ý chí của người chồng.
Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung chưa chia: Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "... phần tài sản
còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng". Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định: "Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung còn lại vẫn thuộc sở hữu chung của vợ, chồng" [10]. Đối với phần tài sản chung này, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng không thay đổi, chế độ sở hữu chung của vợ chồng chưa chấm dứt, nó vẫn đương nhiên tồn tại và là sở hữu chung hợp nhất.
Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà vợ chồng làm ra sau khi chia tài sản chung như tiền lương, tiền công lao động... là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của vợ chồng. Nếu theo quy định của khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP thì "thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác" [10]. Nếu quy định như Nghị định 70/2001/NĐ-CP thì sẽ hiểu rằng: sau khi chia tài sản chung, mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra cũng như mọi thu nhập từ lao động của mỗi bên vợ hoặc chồng sẽ không còn là tài sản thuộc sở hữu chung nữa bất kể từ nguồn gốc nào. Điều đó đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng không còn tồn tại chế độ sở hữu chung hợp nhất nữa vì sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng cơ bản có được từ lao động của mỗi bên vợ, chồng. Điều này là mâu thuẫn với quy định của Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, cần phải sửa đổi quy định này.
Ngoài ra cũng cần phân biệt, khi chia tài sản chung với mục đích để đầu tư kinh doanh riêng thì cần phân biệt hai loại thu nhập phát sinh sau khi chia tài sản chung là: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia do chính hoạt động sản xuất kinh doanh đó (loại thu nhập này là tài sản riêng của vợ, chồng nếu không có thỏa thuận khác) và những thu nhập khác của vợ, chồng không liên quan đến phần tài sản đã được chia như: Tiền lương, tiền thưởng... vì hôn nhân vẫn còn tồn tại nên về nguyên tắc tất cả những tài sản này vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, chứ không thể là tài sản riêng của mỗi bên. Do đó, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung chỉ là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng nếu những thu nhập đó có được gắn liền với phần tài sản được chia [24]. Ngược lại những thu nhập đó là tài sản chung của vợ chồng nếu nó có được không liên quan đến phần tài sản đã được chia. Do đó, quy định tại khoản 2 điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP là chưa thật hợp lý. Quy định này chỉ hợp lý trong trường hợp việc chia toàn bộ tài sản chung và thỏa thuận sống riêng.
* Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc của cả hai vợ chồng.
Pháp luật quy định: Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Pháp luật quy định chia tài sản khi ly hôn phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Quy định này đã bảo vệ sâu sắc quyền lợi của người vợ trong quá trình ly hôn để tránh những thiệt thòi, mất mát về vật chất, tài sản. Có thể nói, bằng quy định này, pháp luật đã đề cao sự thỏa thuận của vợ chồng, đặt người phụ nữ ngang tầm với người đàn ông trong gia đình, bảo đảm quyền về tài sản của người phụ nữ sau ly hôn để có thể sớm ổn định cuộc sống. Mặt khác, sự thỏa thuận, thống nhất cao trong việc chia khối tài sản chung của vợ chồng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi hành án sau này như các bên sẽ tự nguyện thi hành án, quá trình giải quyết của cơ quan thi hành án cũng sẽ nhanh gọn, tránh gây lãng phí về thời gian, công sức tài sản của các bên.
Nếu các bên không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Bảo vệ quyền về tài sản của người phụ nữ được thể hiện rõ qua quy định tại Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Quyền về tài sản của người vợ được ưu tiên qua các quy định sau: Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi,
nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Trong quá trình chia cần lưu ý "bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình" [44] và "bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập" [44].
Hiện nay ở một số nơi quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn chưa được đảm bảo; do đó khi xác định công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung của vợ chồng, đặc biệt cần quan tâm đến công sức đóng góp của người phụ nữ nhất là phụ nữ ở nông thôn. Bởi ở nông thôn, vẫn còn nặng về tư tưởng "của chồng, công vợ" nên nhiều chị em ở nhà chăm sóc chồng con, làm nông nghiệp nên khi xảy ra ly hôn, quyền tài sản của mình không được đảm bảo. Do đó trong những trường hợp này cần phải xác định: tài sản của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất; quyền của người phụ nữ vẫn được bảo vệ khi ly hôn xảy ra.
Giải quyết chia tài sản khi ly hôn nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người phụ nữ cần phải thống nhất quan điểm: dù đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền có nhà ở. Việc giải quyết ly hôn cần tạo điều kiện cho mỗi bên có chỗ ở ổn định, nhất là đối với vợ, các con chưa thành niên và bất kỳ trong trường hợp nào cũng không thể để vợ con không có chỗ ở.
Khi giải quyết ly hôn, thường phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất do cha mẹ bên vợ hoặc chồng đã giao cho vợ chồng chiếm hữu, sử dụng. Đây là những loại việc tương đối phổ biến. Trước đây về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có tổng kết và hướng dẫn tại Công văn số 16 năm 1999 ngày 01/02/1999 như sau: Trường hợp vợ, chồng sau khi kết hôn cất nhà ở trên đất của cha mẹ bên vợ (hoặc chồng) nhưng không có giấy tờ gì thể hiện là được
cho tặng quyền sử dụng đất đó; khi ly hôn, cha mẹ bên vợ (hoặc chồng) nói là chỉ cho mượn đất nhưng nếu phần đất cất nhà ở riêng biệt với đất cha mẹ đang sinh sống hoặc trên cùng thửa đất nhưng đã có ranh giới, khuôn viên rõ ràng. Vợ chồng cất nhà sinh sống, ổn định, lâu dài, xây dựng các công trình trên đất cha mẹ biết nhưng không phản đối… thì tòa xác định quyền sử dụng đất gắn liền nhà hoặc quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng và chia theo quy định nhưng có xét đến công sức đóng góp của mỗi bên... Đây là một hướng dẫn đúng đắn, hợp tình, hợp lý và bảo vệ được quyền lợi của người phụ nữ trong xu thế phát triển của xã hội cần được pháp điển hóa để áp dụng. Có được như vậy sẽ hạn chế những vụ án ly hôn, hạn chế tranh chấp và bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ, trẻ em. Theo quan điểm của chúng tôi, quy định hướng dẫn trên của Tòa án nhân dân tối cao cần được quy định trong các Nghị quyết hướng dẫn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao trong giai đoạn hiện nay làm cơ sở pháp lý cho công tác xét xử các tranh chấp loại này trong thực tiễn.
Trường hợp tài sản chung là nhà ở, vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau về chia nhà ở để đảm bảo tốt nhất giá trị sử dụng của ngôi nhà cũng như điều kiện sinh hoạt chung của mỗi bên sau khi ly hôn. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được việc chia nhà ở thì Tòa án cần xem xét giải quyết.
Pháp luật cũng quy định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn. Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.. Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.