Định Hướng Hoàn Thiện Thẩm Định Năng Lực Tài Chính Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Trong Hoạt Động Cho Vay Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội

ro trong hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp, CVTĐ chưa thấy hết được NLTC cũng như những rủi ro tài chính tiềm tàng của doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cân xứng trong hoạt động tín dụng thời gian qua.

Chưa có căn cứ khoa học để so sánh từng chỉ tiêu định tính

Với loại hình DNNVV, ngân hàng đều lấy một mức nhất định làm cơ sở, căn cứ cho việc đánh giá tài chính là tốt hay không tốt. Ví dụ, với hệ số thanh toán ngắn hạn thì tiêu chuẩn đánh giá tình hình tài chính của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tốt là lớn hơn 1,6; hệ số thanh toán nhanh là lớn hơn hoặc bằng 1; hệ số thanh toán tức thời là lớn hơn hoặc bằng 0,6. Đây được coi là tiêu chuẩn chung để đánh giá tình hình tài chính cho tất cả các DNNVV, trong khi đó trong nhóm các DNNVV thì lại được chia thành doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Thêm vào đó, CVTĐ mới chỉ so sánh từng chỉ tiêu của tất cả DNNVV vay vốn tại MB với chỉ số trung bình tất cả các DNNVV trong nền kinh tế mà không có sự so sánh theo ngành. Hạn chế này trong nhiều trường hợp dẫn đến đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp sai lầm bởi các loại hình doanh nghiệp khác nhau có quy mô hoạt động khác nhau và kết quả xếp hạng cũng khác nhau. Ngoài ra, mặc dù CVTĐ đánh giá tương đối đầy đủ về các nội dung phản ánh NLTC của doanh nghiệp nhưng những đánh giá đó mới chỉ nêu lên được xu hướng biến động của các chỉ tiêu tài chính qua các thời điểm nhất định và tính trung bình tất cả các DNNVV là KH vay vốn tại MB so sánh với các DNNVV trong nền kinh tế nói chung mà chưa có sự so sánh với doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực. Điều này khiến CVTĐ không thấy được tình hình tài chính của các doanh nghiệp vay vốn trong mối tương quan với những doanh nghiệp cùng loại cùng ngành, do đó kết quả đạt được qua việc đánh giá sẽ không thể hiện rõ sức mạnh tài chính của doanh nghiệp so với những doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.

c. Hạn chế về phương pháp thẩm định

Về phương pháp lấy số liệu: Chưa có hệ thống thông tin chính xác, cập nhật; chưa áp dụng phương pháp nội suy, ngoại suy để xử lý thông tin; chưa áp dụng phương pháp mô hình toán trong đó sử dụng dữ liệu trong một chuỗi thời gian dài

để suy đoán khả năng, xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Việc tiếp cận thông tin chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khối DNNVV là việc khó khăn vì hầu hết các doanh nghiệp đi vay vốn tại ngân hàng đều đưa ra một bản hồ sơ vay vốn hoàn hảo. Mặt khác, rất nhiều các DNNVV ở Việt Nam hiện nay không tuân thủ nghiêm chế độ BCTC.

Về phương pháp phân tích: Phương pháp phân tích còn nhiều hạn chế, hầu hết mới chỉ dừng ở mức độ so sánh các chỉ tiêu đã thực hiện so với các chỉ tiêu quá khứ và dự kiến mà chưa kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân tích nhân tố ảnh hưởng, phương pháp Dupont… để thấy được mối liên hệ phổ biến, khách quan mang tính quy luật của các nhân tố, xu hướng vận động và sự phát triển của chúng trong tương lai, do đó kết quả và tác dụng của công tác thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong cho vay mới chỉ đạt ở mức độ khiêm tốn. Các chỉ tiêu phân tích sẽ có ý nghĩa hơn nếu so sánh doanh nghiệp với số trung bình ngành hay các doanh nghiệp tương tự trong ngành.

Tuy nhiên, MB lại chưa có số liệu về định mức, trung bình ngành đầy đủ để làm căn cứ so sánh số liệu tài chính của các doanh nghiệp trong một ngành hay giữa các ngành với nhau.Để đánh giá giá trị hợp lý của các chỉ tiêu phân tích đối với các ngành nghề khác nhau, hiện nay CVTĐ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Hơn nữa, nhiều DNNVV kinh doanh đa nghề khiến ngân hàng khó lựa chọn chỉ tiêu trung bình ngành để so sánh hay lựa chọn doanh nghiệp kinh doanh tương tự.

3.3.3. Nguyên nhân

3.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 245 trang tài liệu này.

Nguồn thông tin sử dụng trong thẩm định NLTC DNNVV chưa chính xác và có tin cậy cao

Như chúng ta đã biết, khâu đầu tiên và quan trọng nhất ảnh hưởng đến thẩm định NLTC DNNVV là thu thập thông tin, số liệu. Tại MB, các cán bộ thẩm định chưa thực sự chủ động trong việc tìm kiếm khai thác nguồn thông tin, hầu hết nguồn thông tin sử dụng để thẩm định chủ yếu là do chủ doanh nghiệp cung cấp từ các tài liệu của doanh nghiệp hoặc do các chi nhánh cấp dưới đưa lên cho Hội sở chính tái thẩm định. Hơn nữa, việc khai thác thông tin từ các nguồn có độ tin cậy

Hoàn thiện thẩm định năng lực tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội 1684137068 - 21

cao hơn như thông tin từ những đơn vị chuyên quản, từ tổng công ty, hiệp hội hay những viện nghiên cứu thì còn hạn chế. Đối với thông tin do chủ doanh nghiệp cung cấp, trong nhiều trường hợp Ngân hàng thiếu các thông tin để đối chiếu và so sánh nên chấp nhận sử dụng mà không đánh giá mức độ chính xác và tin cậy của thông tin. Đối với thông tin do chi nhánh cung cấp, do trình độ của các cán bộ thẩm định tại chi nhánh không đồng đều nên độ chính xác của các thông tin này nhiều khi không cao. Trong khi đó, các cán bộ thẩm định của Ngân hàng Quân đội không phải lúc nào cũng có điều kiện để thẩm định trực tiếp mức độ tin cậy của các thông tin đó. Bên cạnh nguồn thông tin do chi nhánh cung cấp, tại Ngân hàng Quân đội còn có thông tin từ các báo cáo phân tích đánh giá của một số ngành kinh tế và một số doanh nghiệp do chính Ngân hàng thực hiện. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định về kiến thức chuyên môn và các ngành kỹ thuật và do tình trạng che dấu thông tin của các doanh nghiệp, thêm vào đó Ngân hàng Quân đội không phải là cơ quan thống kê kinh tế, không thể thu thập được các thông tin của tất cả các doanh nghiệp trong tất cả các ngành nên nguồn thông tin này cũng chưa mang tính đại diện cho ngành. Hiện nay, có một số cơ quan cung cấp thông tin mang tính chất chuyên nghiệp như Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN, tổng cục thống kê, … Tuy nhiên, thông tin do các cơ quan này cung cấp thường không cập nhật và thông tin về các ngành kinh tế hầu như lại không có. Ngoài ra, một số nguồn thông tin khác như từ báo chí, tạp chí, internet… cũng được khai thác nhưng chỉ mang tính chất tham khảo và độ tin cậy không cao

Việc thẩm định NLTC DNNVV định kỳ còn chưa được quan tâm đúng mức.

Hiện nay, MB chủ yếu mới chỉ thẩm định tài chính doanh nghiệp khi doanh nghiệp đặt vấn đề quan hệ tín dụng với ngân hàng, với các trường hợp rà soát tín dụng định kỳ hoặc phân tích tài chính để tìm kiếm, lựa chọn KH tiềm năng, cơ cấu lại danh mục tín dụng còn mang tính chất hình thức, chưa thực sự hiệu quả.

Chất lượng tín dụng đối với nhóm khách hàng DNNVV tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Nguyên nhân của hạn chế này là do nợ quá hạn được xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro quá lớn, số nợ quá hạn được thu hồi không nhiều và vẫn còn nợ quá

hạn phát sinh mới. Trong những năm qua, MB đã có nhiều nỗ lực tái cơ cấu làm mạnh hóa bảng tổng kết tài sản và tăng cường sức mạnh tài chính thông qua việc tập trung xử lý nợ xấu, nâng vốn chủ sở hữu và tập trung trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Tuy số nợ được xử lý đưa ra theo dõi ngoại bảng khá nhiều nhưng số nợ được thu hồi từ nhóm này còn thấp đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.

Công tác tổ chức thẩm định tuy đã được quan tâm đổi mới nhưng chưa đồng bộ.

Quy trình thẩm định đã được MB quan tâm đổi mới nhưng ở một số chi nhánh chưa thể áp dụng được do chất lượng cán bộ thẩm định chưa đáp ứng được quy trình mới. Ngoài ra, việc áp dụng quy trình thẩm định mới dẫn tới kéo dài thời gian thẩm định và phát sinh chi phí khiến KH khó chấp nhận... Từ đó, đòi hỏi phải có một quy trình thẩm định khoa học, đồng bộ và phù hợp với trình độ năng lực phân tích của đội ngũ cán bộ, giúp cho quy trình mới không gây phiền phức cho KH mà ngược lại có thể tạo ra những giá trị gia tăng, khiến KH hài lòng về dịch vụ.

Cán bộ thẩm định chưa thực sự đáp ứng tốt cho công tác thẩm định

Yếu tố con người mặc dù đã được quan tâm nhiều nhưng với tốc độ phát triển kinh tế nói chung, tốc độ tăng trưởng tín dụng nói riêng và sự gia tăng về số lượng các DNNVV trong thời gian qua thì số lượng và chất lượng cán bộ thẩm định tại MB vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc thẩm định NLTC. Hiện nay, bình quân một cán bộ tín dụng tham gia hoạt động thẩm định NLTC DNNVV phải đảm trách khoảng 250 – 300 tỷ đồng dư nợ - là mức rất cao. Thực tế cho thấy cường độ làm việc của các cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng trong thời gian qua khá căng thẳng nên nhiều cán bộ thẩm định không thể thực hiện đầy đủ, toàn diện tất cả các nội dung quy định trong báo cáo thẩm định mà chỉ lựa chọn những chỉ tiêu và phương pháp thẩm định cơ bản nhất. Các hoạt động tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, với các đối tác và các ban ngành hữu quan để tìm hiểu thêm thông tin phục vụ cho công tác thẩm định cũng chưa được thực hiện thường xuyên.

Mặt khác, kinh nghiệm của các cán bộ thẩm định cũng là một điểm yếu. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định NLTC tại MB có trình độ học

vấn khá cao nhưng công tác đào tạo nghiệp vụ tại Ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Hiện nay, MB chưa có chương trình đào tạo phát triển tổng thể cho đội ngũ cán bộ thẩm định. Nhiều cán bộ chưa có điều kiện được đào tạo nghiệp vụ một cách cơ bản, có hệ thống nên khi thực hiện thẩm định còn nhiều lúng túng. Trình độ của các cán bộ thẩm định không đồng đều, thể hiện rõ nhất là giữa Hội sở chính và các chi nhánh. Đội ngũ cán bộ thẩm định tại Hội sở chính hầu hết có chuyên môn tốt hơn, được đào tạo bài bản hơn và có điều kiện để cập nhật kiến thức mới hơn. Trong khi đó, tại các chi nhánh thì cán bộ thẩm định đào tạo từ cơ chế kinh tế cũ, trình độ chuyên môn hạn chế hơn. Một vấn đề khác về cán bộ thẩm định đó là tư cách đạo đức xuất phát từ việc tổ chức công tác thẩm định, nhiều chi nhánh của MB cán bộ tín dụng đồng thời cũng là cán bộ thẩm định NLTC DNNVV trong khi cơ chế về thu thập thông tin có nhiều điểm chưa thỏa đáng. Thậm chí, ở một số chi nhánh cán bộ tín dụng và thẩm định vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tuy hiểu và nắm rõ, nắm chắc pháp luật nhưng cố tình lách luật, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thông đồng với khách hàng cố ý làm trái gây tổn thất về tài sản cho Ngân hàng.

3.3.3.2. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, ý thức của doanh nghiệp trong việc lập và cung cấp các BCTC chưa cao. Khi vay vốn tại MB, DNNVV phải cung cấp đủ thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, DNNVV thường xây dựng BCTC mang tính chất đối phó với cơ quan thuế, báo cáo chính thức thường thấp hơn tình hình thực tế. Bên cạnh đó, DNNVV thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn bán hàng nên ngân hàng khó có cơ sở đánh giá NLTC.Ngoài ra, đối với một số doanh nghiệp dựa vào tình hình tài chính tương đối ổn định của mình mà không có ý thức nộp các BCTC cần thiết, khiến cho ngân hàng không đủ thông tin làm căn cứ phân tích. Một số doanh nghiệp thì BCTC không thể hiện hết hoạt động thực tế của doanh nghiệp do tập quán và tư duy hạch toán kế toán nhằm trốn tránh thuế vẫn còn phổ biến. Do vậy, ngân hàng vẫn còn tình trạng đánh giá không đầy đủ và thiếu bao quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn.

Thứ hai, hồ sơ dự án xin vay chưa hoàn thiện do còn yếu kém về năng lực, từ đó nhiều DNNVV không thể chuẩn bị được hồ sơ dự án với chất lượng cao. Một giải pháp cho các DNNVV là thuê tư vấn để lập luận chứng cứ khả thi nhưng chi phí thuê tư vấn lại gây tốn kém cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. Lý do này chiếm 19,1% những khó khăn trong công tác thẩm định NLTC DNNVV tại MB.

Thứ ba, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có những cơ quan hay đơn vị độc lập chuyên phân tích đánh giá và xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp theo thông lệ thế giới như Standard and Poor’s, Moody, Fitc... Trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng nhà nước tuy đã được thành lập và có nhiều nỗ lực trọng việc thu thập, phân tích và cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng của doanh nghiệp trong hệ thống ngân hàng nhưng thông tin qua CIC đôi khi quá lạc hậu (thường chậm 6 tháng đến 1 năm) và thiếu chính xác do phụ thuộc vào tính trung thực của những thông tin do các ngân hàng thương mại thành viên cung cấp. Do vậy, ngân hàng khó có cơ sở để so sánh và xác định chính xác tình hình tài chính và độ tín nhiệm của doanh nghiệp trong tổng thể các hoạt động liên quan đến hệ thống ngân hàng nói riêng và các doanh nghiệp nói chung. Kết quả xếp hạng chủ yếu vẫn dựa vào những phân tích và đánh giá nội bộ của từng ngân hàng.

Thứ tư, việc xây dựng bộ chỉ tiêu tài chính cho từng ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ của các bộ ngành liên quan. Bộ tiêu chuẩn này đánh giá KH trên các phương diện khác nhau như: các tiêu chuẩn đánh giá năng lực KH, các tiêu chuẩn phân tích BCTC, các tiêu chuẩn thẩm định dự án đầu tư, các kỹ thuật phân tích BCTC và thẩm định tài chính dự án. Tuy nhiên, công tác này đến nay vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Thứ năm, hệ thống thông tin kế toán, kiểm toán và BCTC chưa theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Hiện nay hệ thống tiêu chuẩn kế toán của Việt Nam (VAS) vẫn còn nhiều khác biệt so với hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS). Trong khi nhà nước chỉ bắt buộc phải tiến hành kiểm toán BCTC đối với các doanh nghiệp như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, số còn lại nhà nước chỉ khuyến khích tiến hành kiểm toán tài chính. Vì

vậy, các BCTC của KH vay vốn gửi cho ngân hàng đôi khi còn mang tính đối phó, số liệu kê khai chưa trung thực với tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp.

Kết luận chương 3:

Trong nội dung chương 3, luận án đã khái quát quá trình hình thành và phát triển của NH TMCP Quân đội cùng với kết quả hoạt động kinh doanh với những tiêu chí quan trọng trong giai đoạn 2012 – 2016.

Nội dung quan trọng trong chương này là nghiên cứu về thực trạng thẩm định NLTC DNNVV trong hoạt động cho vay của MB giai đoạn 2012 – 2016 thông qua quy trình, phương pháp thẩm định và các tiêu chí cả định tính và định lượng mà tác giả thu thập được từ nguồn số liệu thứ cấp. Đặc biệt trong chương này, luận án có phân tích một trường hợp khách hàng DNNVV vay vốn tại MB làm minh chứng cho việc đánh giá thẩm định NLTC DNNVV của MB thời gian qua. Qua đó luận án đánh giá những kết quả đạt được (áp dụng đúng quy trình thẩm định NLTC doanh nghiệp, có văn bản cụ thể hướng dẫn quy trình và nội dung thẩm định NLTC doanh nghiệp, nội dung phân tích tương đối đầy đủ, phương pháp tính toán các chỉ tiêu thẩm định chính xác và khoa học…), những tồn tại và yếu kém trong thẩm định NLTC của MB (chưa khai thác tối đa các nguồn thông tin; chưa đảm bảo tính trung thực, chính xác, khách quan của số liệu, chỉ tiêu thẩm định, nội dung chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích còn hạn chế, chưa có hệ thống chỉ tiêu tài chính trung bình ngành của từng nhóm ngành làm tiêu chuẩn, chưa có sự so sánh tương quan ngành). Sau đó, luận án đi sâu vào phân tích nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém để từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu cho ngân hàng.

CHƯƠNG 4.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

4.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN THẨM ĐỊNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

4.1.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội đến năm 2025

Trên cơ sở các kết quả đã đạt được, phân tích các hạn chế và điều kiện kinh tế Việt Nam hiện tại và dự báo trong tương lai, Ngân hàng Quân đội định hướng xây dựng chiến lược phát triển cho thời gian tới như sau:

Tầm nhìn: Xây dựng thương hiệu MB thành ngân hàng đa năng trên cơ sở áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất, duy trì vai trò quan trọng trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam và trở thành một trong 70 định chế tài chính hàng đầu Châu Á giai đoạn 2020 – 2025, có phạm vi hoạt động quốc tế.

Chiến lược phát triển:

Tiếp tục đổi mới và hiện đại hóa toàn diện mọi mặt hoạt động – bắt kịp với trình độ khu vực và thế giới.

Tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế sẵn có của MB cũng như của các cổ đông mới, phát triển, mở rộng lĩnh vực hoạt động hiệu quả theo cả chiều rộng và chiều sâu.

Để đạt được các mục tiêu trên, phương hướng hoạt động cụ thể của MB thời gian tới là:

Tăng cường năng lực quản trị điều hành và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sử dụng vốn;

Tăng cường NLTC, đảm bảo an toàn hoạt động và phát triển; Nâng cao sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;

Giữ vững vai trò quan trọng trong những ngân hàng chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam;

Xem tất cả 245 trang.

Ngày đăng: 15/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí