Việt Nam Tham Gia Các Lĩnh Vực Hợp Tác Của Asean

1.2.2. Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN

Hợp tác trên lin

h vưc

chính trị - an ninh

Đối với mỗi quốc gia, sự ổn định về chính trị - an ninh luôn có vị trí quyết định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, ASEAN càng đẩy mạnh hợp tác chính trị - an ninh, đây luôn là lĩnh vực hợp tác quan trọng và nhạy cảm của ASEAN.

Một trong những đóng góp đầu tiên được ghi nhận của Việt Nam đối với khu vực là nỗ lực thúc đẩy kết nạp các nước Lào, Myanma và Campuchia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, hình thành một ASEAN 10, quy tụ mười quốc gia ở Đông Nam Á.

Ngay từ năm 1992, khi Việt Nam và Lào được chấp nhận là quan sát viên của tổ chức ASEAN, Việt Nam đã luôn bày tỏ ủng hộ Lào. Sau khi trở thành thành viên chính thức, Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn trong việc giúp đỡ Lào. Viêṭ Nam đã cùng các nước ASEAN khác nhiệt tình thúc đẩy tiến trình gia nhập của Lào như: “cung cấp các văn kiện, tài liệu về ASEAN cho Lào, phổ biến cho Lào những kinh nghiệm tham gia hợp tác trong tổ chức hay tích cực vận động sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế đối với việc gia nhập Hiệp hội của Lào…” [98, tr.38]. Cùng với những nỗ lực của bản thân nước Lào, sự giúp đỡ tích cực và sự hỗ trợ có hiệu quả của Việt Nam với Myanma ngày 23/7/1997 Lào và

Myanma đã chính thức được kết nạp vào tổ chức ASEAN nâng tổng số thành

viên của Hiệp hội lên 9 nước.

Khác với quá trình gia nhập của Lào, Myanma, Việc gia nhập ASEAN của Campuchia là một vấn đề hết sức phức tạp và gây nhiều tranh cãi trong nội bộ khối ASEAN vì chưa được sự nhất trí hoàn toàn của các nước thành viên. Việt Nam, Lào, Myanma, Indonesia, và Brunei cho rằng cần sớm kết nạp Campuchia; Thái Lan và Singapore và Philippines cho rằng Campuchia chưa có đủ điều kiện để tham gia do tình hình nội bộ của nước này thiếu ổn định có thể gây ảnh hưởng tới nền hòa bình chung của cả Hiệp hội. Cũng chính vì lý do đó mà Lào và Myanma đã được kết nạp trước Campuchia. Tuy nhiên đối với việc kết nạp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Campuchia vào ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ. Ngay từ năm 1997 Đảng đã nhận thức rò ràng rằng: “Cần kết nạp sớm Campuchia vào ASEAN vì lợi ích của Campuchia, của ASEAN và của khu vực” [21, tr.1]. Chính vì vậy, Việt Nam đã rất cố gắng trong việc thuyết phục các nước thành viên khác của ASEAN và có những tác động chính trị để làm giảm bớt tình hình căng thẳng, mâu thuẫn giữa các lực lượng ở Campuchia. Tại hội nghị cấp cao ASEAN 6 tổ chức tại Hà Nội (tháng 12 năm 1998), Việt Nam đã chuẩn bị trước tài liệu “Lễ kết nạp Campuchia vào ASEAN” và phân phát cho các thành viên tham dự hội nghị nhằm tranh thủ sự ủng hộ của tất cả các nước đối với việc kết nạp Campuchia vào ASEAN. Bên cạnh đó tạo điều kiện thuận lợi cho Campuchia Việt Nam đã mời Thủ tường Hun Sen tới thăm chính thức Việt Nam vào ngày 13/12/1998, hai ngày trước khi Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN khai mạc, nhằm giúp Campuchia vận động và thuyết phục các nước “thận trọng” còn chưa có quyết định rò ràng. Mặc dù chưa đạt được nhất trí về việc kết nạp Campuchia ngay tại Hà Nội nhưng các thành viên đã đạt được một giải pháp quan trọng là khẳng định trong tuyên bố Hà Nội kết nạp Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN vào thời gian gần nhất. Chưa đến nửa năm sau, ngày 30/4/1999, tại thủ đô Hà Nội, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 30 (AMM – 30) đã tổ chức kết nạp Campuchia vào ASEAN. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa chính trị quan trọng. Tính từ thời điểm đó, ASEAN đã trở thành một tổ chức thống nhất bao gồm cả 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đánh dấu quá trình liên kết và hợp tác mới của khu vực.

Ba năm sau khi gia nhập ASEAN Việt Nam đã tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN 6 (12/1998). Nỗ lực của chúng ta trong việc tổ chức Hội nghị này được đánh giá rất cao. Chương trình hành động Hà Nội (Hanoi Plan of Action – HPA) đã đề ra những biện pháp kinh tế và xã hội nhằm khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, đưa hình thức ASEAN + 3 và ASEAN + 1 vào hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Kế hoạch hành động Hà Nội đã mang lại sự hiện thực hóa sớm của

Chính sách đối ngoại của Đảng với Asean từ năm 1995 đến năm 2010 - 5

AFTA và giúp các nước trong khu vực phục hồi kinh tế mạnh sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997.

Để đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển trong bối cảnh mới khu vực và thế giới, tháng 7/1994 các nước ASEAN quyết định thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài khu vực để bàn về vấn đề an ninh khu vực (gồm 6 nước ASEAN, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Canada, Liên minh Châu Âu, Australia, NewZealand, Việt Nam, Lào, Hàn Quốc, Papua Niughinê). ARF là diễn đàn để đối thoại hợp tác giữa các thành viên về các vấn đề chính trị - an ninh khu vực. ARF tiến triển qua ba giai đoạn theo trình tự từ xây dựng lòng tin đến ngoại giao phòng ngừa, cuối cùng là giải quyết xung đột. Hoạt động của ARF theo nguyên tắc tiệm tiến, mọi quyết định phải trên cơ sở tham khảo ý kiến và đồng thuận của tất cả các thành viên; thực hiện trên cơ sở tự nguyện; các hoạt động của ARF về cơ bản dựa trên các tập quán, phương thức làm việc của ASEAN. Việc thành lập ARF là thành công lớn của ASEAN, do tổ chức này không giống các tổ chức an ninh quân sự khác. ARF được thành lập không nhằm đối phó với bất kì mối đe dọa hay khủng hoảng nào mà mục đích chủ yếu của nó là phòng ngừa và ngăn chặn xung đột vũ trang.

Là một thành viên sáng lập ARF, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực vào những hoạt động gìn giữ hòa bình, an ninh trong khu vực. Với trọng trách là chủ tịch ARF nhiệm kì 2000 – 2001, Việt Nam đã tổ chức Hội nghị ARF lần thứ 8, phối hợp chặt chẽ với các nước khác trong ASEAN duy trì những nguyên tắc của ASEAN duy trì những nguyên tắc của ASEAN. Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác đấu tranh để đảm bảo nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ” trong giải quyết xung đột, cùng các nước ASEAN soạn văn kiện Hiệp ước biến Đông Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Khi đảm nhiệm vai trò chủ tịch ARF, Việt Nam đã nêu sáng kiến và tổ chức cuộc ho ̣ p tham khảo ý kiến giữa các nước ASEAN với năm nước có vũ khí hạt nhân để tranh thủ năm cường quốc tham gia Nghị định thư của SEANWFZ.

Cùng với Hiệp ước SEANWFZ, Việt Nam cũng góp phần vào việc sửa đổi Hiệp ước TAC nhằm tạo điều kiện cho các nước ngoài khu vực, nhất là các nước lớn tham gia. Theo đó, Quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC được soạn thảo. Hiệp ước TAC chứa đựng những nguyên tắc cơ bản, làm cơ sở để ASEAN đẩy mạnh sự hợp tác, thân thiện và hữu nghị trong ASEAN. TAC đã trở thành Bộ quy tắc ứng xử chung cho quan hệ giữa ASEAN với bên ngoài mà đến nay đã có Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Pakistan, Mông Cổ, NewZealand và Australia tham gia…

Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng thúc đẩy giải quyết nhanh các vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ của nước ta với các nước ASEAN. Chẳng hạn vấn đề phân định ranh giới trên biển giữa Việt Nam với các nước thành viên có vùng biển chống lấn như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines… Trong khi nỗ lực khắc phục những cản trở trong mối quan hệ song phương với từng nước thành viên ASEAN, Việt Nam còn tích cực hợp tác với các nước Đông Nam Á có liên quan tới cuộc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông nhằm tìm ra giải pháp cho vấn đề này.

Đối với vấn đề tranh chấp ở biển Đông, một vấn đề an ninh phức tạp và nhạy cảm, liên quan đến lợi ích nhiều bên, Việt Nam luôn chủ động kiềm chế, bày tỏ lập trường nhất quán cùng các bên hữu quan giải quyết thông qua đàm phán, thương lượng hòa bình. Tháng 7 năm 1999 Việt Nam cùng Philippines được Hiệp hội ủy nhiệm soạn thảo Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Việc hoàn tất dự thảo của ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử biển Đông cho thấy rò thái độ, trách nhiệm của Việt Nam đối với những cố gắng của ASEAN nhằm đưa ra những nguyên tắc ứng xử hợp lý giữa các bên hữu quan, hướng tới duy trì và củng cố môi trường hòa bình, an ninh khu vực về mục tiêu phát triển. Đó chính là cơ sở để tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ VIII, ở Phnôm Pênh năm 2002, Trung Quốc và ASEAN đã ra bản Tuyên bố về ứng xử ở biển Đông, đạt được sự thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản.

Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các sinh hoạt chính trị của hiệp hội như các Hội nghị thượng đỉnh chính thức và không chính thức, các Hội nghị Ngoại trưởng và Bộ trưởng kinh tế, các cuộc họp quan chức cao cấp (cấp Thứ trưởng – SOM và SEOM), các cuộc họp với các bên đối ngoại của ASEAN như ASEAN

+1, ASEAN +3, Diễn đàn sau Hội nghị bộ trưởng ASEAN (PMC) để đối thoại với các nước công nghiệp phát triển.

Từ năm 1998 đến 2000, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao Hiệp ước TAC trên cơ sở giữ vững nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội. Nội dung chính của quy chế là Hội đồng chỉ tiếp nhận giải quyết những tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định khu vực, được các bên liên quan trực tiếp đồng ý, chỉ đóng vai trò trung gian hòa giải

giúp các bên tranh chấp giải quyết (không có biện pháp cưỡng chế), mọi quyết định dựa trên nguyên tắc nhất trí.

Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC được coi là cơ chế đầu tiên của ASEAN để giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế khu vực, tránh để bên ngoài can thiệp. Việt Nam đã tham gia soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao, giúp cho việc sớm thành lập và đưa Hội đồng tối cao TAC đi vào hoạt động. Trong hoạt động của Hội đồng tối cao, Việt Nam luôn chú ý tới việc đảm bảo tôn trọng và duy trì các nguyên tắc cơ bản và truyền thố ng của ASEAN, nhất là nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp vào công việc nội bộ”, duy trì được vai trò chủ đạo của ASEAN, tránh biến hội đồng thành một tòa án tiểu khu vực, với vai trò của một vài nước khống chế các quy định của hội đồng. Vì vậy, thành phần của hội đồng bao gồm tất cả các bên nhằm đảm bảo lợi ích chính trị an ninh của mọi thành viên.

Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các quan hệ đối thoại của ASEAN. Khi Việt Nam gia nhập vào ASEAN năm 1995, ASEAN đã thiết lập quan hệ đối thoại với 8 nước (Australia, Canada, EU, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, NewZealand, Mỹ) và tổ chức quốc tế UNDP. Việt Nam được giao làm nước điều phối quan trọng của ASEAN với NewZealand.

Năm 1996, ASEAN thiết lập quan hệ đối thoại với Trung Quốc, Nga. Việt Nam được giao thêm nhiệm vụ là nước điều phối quan hệ của ASEAN với Nga.

Từ năm 1997 đến năm 2000, Việt Nam là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN và Nhật Bản.

Việc ASEAN nâng quan hệ với Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ lên mức đối thoại đầy đủ, một phần nhờ Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước này trên cơ sở cân bằng. Như vậy, ASEAN trở thành một tổ chức khu vực duy nhất có quan hệ đối tác với tất cả các nước và các trung tâm trên thế giới gồm có: Mỹ, Nhật Bản, EU, Canada, Australia, NewZealand, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ. Điều này có lợi cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực. Hơn cả là uy tín của ASEAN được nâng cao.

Ngoài ra, Việt Nam cũng tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo của kênh 2, đây là kênh đối thoại, tham khảo ý kiến, tư vấn nghiên cứu, xây dựng lòng tin, thông tin liên lạc… nhằm nâng cao ý thức hợp tác, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, xây dựng lợi ích cộng đồng, do vậy mà có thể kiềm chế dẫn tới loại trừ giải pháp dùng vũ lực để giải quyết xung đột và giảm thiểu các nguy cơ gây xung đột. Việt Nam tham gia ngày càng tích cực và chủ động hơn vào kênh này.

Hợp tác trên lin

h vưc

kinh tế, thương mại


Quan hệ quốc tế thời kì hậu chiến tranh có những xu hướng mới, trong đó xu hướng ưu tiên phát triển kinh tế lôi cuốn cả cộng đồng quốc tế. Kinh tế trở thành nhân tố trọng tâm, quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Không nằm ngoài vò ng lôi cuốn đó, các nước ASEAN cũng chuyển từ hợp tác

chính trị an ninh là chủ yếu sang giai đoạn mới của quá trình hợp tác là lấy hợp

tác kinh tế làm trọng tâm.

Hội nghị cấp cao ASEAN IV tổ chức ở Singapo 1/1992 đã thông qua Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN. Hiệp định này đã nêu ra 3 nguyên tắc là hướng ra bên ngoài, cùng có lợi và linh hoạt đối với sự tham gia vào các dự án, chương trình của các nước thành viên. Hiệp định này cũng xác định 5 lĩnh vực

hợp tác cụ thể là thương mại – công nghiệp – năng lượng – khoáng sản; nông – lâm – ngư nghiệp; tài chính – ngân hàng; giao thông vận tải – bưu chính viễn thông và du lịch. Hội nghị đã thông qua Hiệp định về hướng chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), quy định cụ thể về biện pháp và các giai đoạn giảm thuế quan nhập khẩu tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). AFTA ra đời trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hóa thương mại rộng lớn hơn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của ASEAN trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình hợp tác kinh tế của ASEAN từ khi thành lập.

AFTA được thiết lập nhằm các mục tiêu cơ bản sau đây:

Một là, tự do hóa về thương mại nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan và phi quan thuế.

Hai là, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo dựng một khối thị trường thống nhất. AFTA sẽ tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của nền kinh tế thành viên khác nhau. Tuy nhiên, để đạt được mục đích này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác.

Ba là, làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại thế giới. Theo xu thế tự do hóa nền sản xuất toàn cầu, AFTA là nấc thang đầu tiên trong xu thế tiến tới sự hợp tác toàn diện.

Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thỏa thuận trong Hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hóa hàng hóa giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận nhận tiêu chuẩn hàng hóa của nhau, xóa bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương,

hoạt động kinh tế vĩ mô…trong đó CEPT (Hiêp

điṇ h về Thuế quan ưu đai

có hiêu

lưc

chung – Common Efective Preferential Taiff) là cơ chế thực hiện chủ yếu.

CEPT, về thực chất, đó là một thỏa thuận giữa các nước thành viên

ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0 – 5% thông qua cơ cấu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 01/011/1993 và hoàn thành vào 01/01/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hóa tư bản và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến.

Chương trình CEPT/AFTA được hình thành tại hội nghị cấp cao ASEAN IV tại Singapore năm 1992, với dự kiến thời gian hoàn thành AFTA cơ bản trong vòng 15 năm (đến năm 2005, thuế quan trong nội bộ ASEAN với đa số mặt hàng

thuế suất chỉ còn 0 – 5%). Hội nghị cấp cao ASEAN VI, tổ chức tại Hà Nội, tháng 12/1998 quyết định rút xuống 9 năm với 6 nước thành viên ban đầu, các nước này sẽ có hàng hóa thuộc danh giảm thuế có thuế suất từ 0 – 5% với các mốc như sau: 85% vào năm 2000, 90% vào năm 2001, 100% vào năm 2002. Còn

đối với các nước mới gia nhập có thời hạn 10 năm (giữ nguyên như cũ) nhưng phải tối đa hóa số dòng thuế 0 – 5% ba năm trước thời điểm hoàn thành của mỗi nước (Việt Nam: 2003); Lào và Myanma:2005). Tại Hội nghị Cấp cao không chính thức ASEAN tại Manila 11/1999, Singapore nêu đề nghị rút ngắn thời gian đạt thuế suất 0% đối với 100% số dòng thuế trong danh mục giảm thuế vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên ban đầu và năm 2015 đối với các nước thành viên còn lại (các mặt hàng nhạy cảm được lùi lại tương ứng 2015 và 20180, đề nghị này đã được Hội nghị nhất trí và giao cho Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN triển khai.

Hợp tác kinh tế của ASEAN rất phong phú, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan kinh tế của Việt Nam. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Phòng thương mại và

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí