Quan Điểm, Chủ Trương Của Nhà Nước Về Xây Đựng Đội Ngũ Trí Thức Từng Bước Được Thực Hiện Có Kết Quả


Tư vấn, phản biện là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của trí thức. Trong sự nghiệp CNH, HĐH, vai trò tư vấn, phản biện xã hội của các hội trí thức đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đảng và Nhà nước triển khai các chương trình, đề tài nghiên cứu các cấp, qua đó phát huy năng lực của trí thức trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Đồng thời, các hội trí thức được tạo điều kiện để tham gia nghiên cứu, tư vấn và phản biện về các dự án, chương trình trọng điểm của nước.

4.1.2. Quan điểm, chủ trương của Nhà nước về xây đựng đội ngũ trí thức từng bước được thực hiện có kết quả

Chủ trương của Đảng về xây dựng ĐNTT được pháp chế hóa, cụ thể hóa tại các đạo luật và nhiều văn bản dưới luật, được các cấp, các ngành nghiêm túc thực hiện. Luật KH-CN, Luật sở hữu trí tuệ Luật giáo dục,... được bổ sung, sửa đổi phù hợp với thực tế tình hình Việt Nam đang hội nhập quốc tế. Hiệp định TRIP và các hiệp định về bản quyền tác giả đã được kỷ kết giữa Việt Nam với các đối tác, và được thực hiện nghiêm túc.

Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác xây dựng ĐNTT, phát triển nguồn nhân lực, các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức (KH-CN, GD- ĐT, VH-NT, y tế,...) thành chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, chương trình công tác. Theo thống kê của Ban Khóa giáo Trung ương năm 2005 (trong số 53/64 tỉnh thành có văn bản báo cáo), đã có 13/53 tỉnh, thành phố ban hành nghị quyết của Tỉnh ủy về phát triển KH-CN, GD-ĐT; 17/53 tỉnh, thành phố ban hành chỉ thị, kế hoạch và chương trình hành động triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương về phát triển KH-CN, GD- ĐT. Hầu hết các tỉnh đều ban hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, đề án và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực, quy định về thu hút, đãi ngộ, khen thưởng, khuyến khích tài năng, nhân tài: 36/53 tinh, thành phố ban hành quyết định; 13/53 tỉnh, thành phố đưa vào nghị quyết đại hội; 5/53 tỉnh, thành phố ban hành chỉ thị. Quan


tâm xây dựng hội trí thức, đã có 11/53 tỉnh, thành phố ban hành chỉ thị về thành lập và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội KH-KT địa phương; 16/53 tỉnh, thành ban hành các văn bản về hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội,... của Liên hiệp hội địa phương (xem Phụ lục 21,22).

Vấn đề sử dụng ĐNTT bước đầu đã quán triệt quan điểm trọng dụng theo tiêu chuẩn đức - tài, sử dụng, bố trí đúng người, đúng việc, đúng lúc, tin dùng trí thức, nhân tài; quan tâm phát hiện, bồi dưỡng gắn liền với phát huy vai trò của trí thức, khắc phục tình trạng cục bộ, đề cao sản xuất vật chất, coi nhẹ lao động trí óc, coi lao động trí óc chỉ là lao động gián tiếp. Trên quan điểm đổi mới, Đảng xác định lao động trí óc cũng là lao động sản xuất trực tiếp, sản xuất các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội, trực tiếp đóng góp vào sự phát triển KT-XH.

Môi trường cho các hoạt động sáng tạo của trí thức cũng được mở rộng theo hướng phát huy dân chủ. Bên cạnh các mô hình tổ chức sự nghiệp, hoạt động dưới sự bao cấp của Nhà nước, các tổ chức KH-CN được đa dạng hóa. Một số đơn vị đã hoạt động có hiệu quả theo mô hình doanh nghiệp, tự chủ về tài chính, nhân sự.

Từ thực tiễn CNH, HĐH, bước đầu đã xuất hiện những hình thức tổ chức mới để phát huy sức mạnh của liên minh công-nông-trí: Tổ chức liên kết 4 nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp; liên kết 3 nhà: Nhà khoa học - nhà nước - nhà doanh nghiệp, hay: Nhà nghiên cứu - nhà sản xuất - nhà quản lý. Ở thành phố Hổ Chí Minh, cụ thể hóa là liên kết 3 nhà: Nhà khoa học - nhà doanh nghiệp - nhà quản lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

4.1.3. Đội ngũ trí thức có bước trưởng thành, đóng góp quan trọng đối vói thành tựu đổi mới đất nước

Cùng với thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã xây dựng được một ĐNTT đông đảo, có trình độ cao, phong phú, đa dạng về ngành nghề, làm việc ở mọi miền của Tổ quốc trong đó có nhiều trí thức nữ, trí thức là con em đồng bào các dân tộc thiểu số. ĐNTT nước ta đã phát huy

Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2008 - 18


truyền thống vãn hiến của dân tộc, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt, từng bước tiếp cận, giao lưu, trao đổi, hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, góp phần tôn vinh dân tộc trong thời đại mới.

Trong hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986-2008), đặc biệt là trong những thời điểm lịch sử khó khăn, trước những diễn biến phức tạp cùa tình hình trong nước và thế giới, ĐNTT thể hiện rò lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm xã hội, trăn trở suy tư trước vận mệnh, tiền đồ của đất nước, của dân tộc, đem hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho sự thịnh vượng của đất nước. Nhiều trí thức đã sẵn sàng nhận những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ.

Trí thức Việt Nam đã đóng góp vào sự nghiệp chung, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng KT-XH và đã đạt được những thành tựu to lớn, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao chất lượng cuộc sống của đại bộ phận nhân dân lao đông và tiềm lực của đất nước. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, ĐNTT đóng góp quan trọng vào hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của dân tộc. Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về KH-CN với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Nhiều thành tựu công nghệ mới của thế giới đã được tiếp thu, ứng dụng thành công trong thực tế, mang lại hiệu quả KT-XH rò rệt, đặc biệt là trong các lĩnh vục nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông...

Trí thức, văn nghệ sỹ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Số người đoạt các giải thưởng về kiến thức văn hóa, thể dục thể thào, phim ảnh ở các giải thi đấu quốc tế và khu vực tăng lên. Trí thức nhiệt tâm, cống hiến tài năng, sức lực, xứng đáng là những chiến xung kích trên mặt trận tư tưởng lý luận, văn hóa - giáo dục, đóng góp quan trọng vào những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của cồng cuộc đổi mới.


Đội ngũ trí thức KH-CN (bao gồm KHXH, khoa học tự nhiên và KH- KT) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Một bộ phận trí thức, các chuyên gia đã trực tiếp được mời tham gia vào quá trình chuẩn bị và xây dựng những quyết sách của Đảng và Nhà nước trên các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội,... Nhiều ý kiến đóng góp đầy tâm huyết của trí thức đã giúp cho việc xây dựng, điều chỉnh, bổ sung để từng bước hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước. Trên những luận cứ khoa học có sức thuyết phục, khả thi cao, trí thức đóng góp quan trọng vào quá trình triển khai thực hiện đường lối, chủ trương Đảng đã đề ra; góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước, giải đáp những vấn đề mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; bước đi của quá trình CNH, HĐH; đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT đạt nhiều kết quả. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đặt sự nghiệp GD-ĐT và KH-CN là quốc sách hàng đầu, là động lực cho CNH, HĐH, chú trọng xây dựng và thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của quốc gia. Với mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bổi dưỡng nhân tài, công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức có bước tiến quan trọng, từng bước xây dựng ĐNTT có năng lực sáng tạo, thích ứng với tình hình mới, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc

Từ chỗ đóng kín, biệt lập trong ngành GD-ĐT, hoạt động đào tạo được xã hội hóa cao. Kinh phí đào tạo được bao cấp, chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước đã thu hút nhiều nguồn lực cho đào tạo: Nhà nước, xã hội, nhân dân, doanh nghiệp, nội lực và ngoại lực... Nổi bật là loại hình trường dân lập đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của xã hội. Ngân sách nhà nước hằng năm dành cho GD-ĐT ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong chi tiêu quốc gia (từ 12% chi ngân sách năm 1990 lên hơn 20% năm 2008) và huy động được nhiều nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục. Đồng thời, chi phí cho giáo dục cũng chiếm tỷ lệ lớn trong chi tiêu của các gia đình


Việt Nam. Quan hệ hợp tác quốc tế về GD-ĐT phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú.

Thực hiện hội nhập quốc tế và mở cửa dịch vụ giáo dục đã tạo điều kiện để các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục dưới nhiều hình thức. Các dự án đầu tư từ nước ngoài vào giáo dục đã tăng nhanh. Sau hơn 10 năm, từ năm 1993, năm đầu tiên cấp giấy phép cho dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục, đến năm 2005 đã có 37 đự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là gần 66 triệu USD. Trong đó có 17 dự án đã hoạt động với gần 17 triệu USD. Lớn nhất là dự án Trường Đại học quốc tế RMIT Việt Nam với vốn đăng ký là 36,7 triệu USD. Các dự án đầu tư nước ngoài dần hình thành các cơ sở đào tạo có uy tín, giúp tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị tiên tiến cho giáo dục.

Trong những năm đổi mới, số học sinh nhập học các trường dại học, cao đẳng liên tục tăng với tốc độ cao. Từ năm 1990 đến 2008, qui mô đào tạo đại học và cao đẳng tăng bình quân hàng năm là trên 5%. Năm học 1990- 1991 tuyển sinh đại học là 41.329 sinh viên, năm học 2005-2006 tâng lên 295.186 sinh viên, tăng hơn 7,1 lần; học sinh tuyển vào các trường cao đẳng tăng hơn 16,3 lần. Trung bình mỗi năm, số sinh viên đại học tuyển mới tăng 47,3%.

Quy mô đào tạo sau đại học tăng nhanh. Năm 2005-2006, số lượng tuyển sinh nghiên cứu sinh tăng 2,1 lần so với năm học 1990-1991 (năm học 2005-2006 tuyển mới 1.009 người/462 người năm học 1990-1991). Quy mô tuyển mới học viên cao học năm 2005-2006 là 12.289 người, tăng 24,1 lần so với năm học 1990- 1991 (509 người) [180, tr.497]. Đào tạo bậc trên đại học có những đổi mới mang tính cải cách: Đào tạo trình độ thạc sỹ và trình độ tiến sỹ (thay cho trình độ phó tiến sỹ trước đây).

Trong GD-ĐT coi trọng chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, hiện đại hoá nội đung, phương pháp giáo dục, dân chủ hoá nhà trường và quản lý giáo dục, gắn đào tạo với nhu cầu lao động xã hội.


Cùng với xã hội hóa GD-ĐT trong nước, hội nhập và mở cửa đã tạo điều kiện để người có nhu cầu và điều kiện đi du học. Trong những năm 2000- 2008, trung bình có 10.000 sinh viên Việt Nam học ở nước ngoài mỗi năm, chi phí khoảng 10 triệu USD.

Đội ngũ trí thức có bước trưởng thành toàn diện, trình độ chuyên môn, năng lực sáng tạo được nâng lên; trí thức thể hiện hoài bão lớn, có ý thức trách nhiệm xã hội, gắn bó với Đảng, với dân tộc; Số lượng tãng nhanh, làm việc trên các lĩnh vực, vùng miền; Đóng góp quan trọng vào những thành tựu của công cuộc đổi mới. Sự trưởng thành nhanh chóng, toàn diện và những đóng góp của trí thức vào những thành tựu mà nước ta đạt được là những biểu hiện sinh động của chính sách xây dựng ĐNTT. Đổng thời, sự lớn mạnh của ĐNTT cũng là thành tựu của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Một số hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức


Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội trí thức (1986-2008) còn những hạn chế, khuyết điểm chưa được khắc phục kịp thời, do vậy phương hướng xây dựng ĐNTT đồng bộ, toàn diện còn chưa đạt được hiệu quả trên thực tế.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức chưa có chiến lược, chưa gắn với quy hoạch; đào tạo chưa sát nhu cầu xã hội, gây nên sự lãng phí và thiếu hiệu quả. Đầu tư, quản lý đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng trí thức còn nhiều yếu kém. Kinh phí đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức tăng qua các năm và khá lớn trong GDP nhutig do thiếu cơ chế đầu tư thích hợp nên hiệu quả còn chưa tương xứng, việc sử dụng kinh phí còn lãng phí.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng còn thấp, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo ở các bậc đại học và sau đại học chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập,... Bằng cấp đào tạo không được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Việc bố trí việc làm, sắp xếp, sừ dụng sinh viên sau khi ra trường


vãn là mối quan tâm của toàn xã hội. Chỉ khoảng 1/3 số sinh viên ra trường tìm được việc làm ổn định, trong đó số kỹ sư, cử nhân mới tốt nghiệp làm đúng nghề rất thấp, số tiến sỹ không thực chất là 30% [212].

Đội ngũ trí thức nước ta tăng nhanh về số lượng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu thực tế về nguồn lực trí tuệ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính... Trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hăng hụt, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín trong khu vực và quốc tế. Trí thức Việt Nam còn thiếu sự hoài nghi khoa học, tư duy phản biện, thiếu chuyên tâm với nghiên cứu tìm tòi và sáng tạo. Hiếm có tranh luận giữa các ý kiến khác nhau, thường lảng tránh hay khỏa lấp những vấn đề gai góc của hiện thực xã hội. Có năm, cả nước chỉ có vài đăng ký phát minh, sáng chế KH-CN.

Sự phân công lực lượng lao động trí óc giữa các vùng, miền, các ngành nghề còn chưa thích hợp với sự phát triển KT-XH; số sinh viên sau khi đào tạo không có việc làm khá lớn, trong khi ở nhiều vùng tỷ lệ người được đào tạo lại rất thấp. Đảng ta đã nhận thức rò sự phân bố bất hợp lý giữa các vùng, ngành và đặt mục tiêu phản bố hợp lý hơn nhưng kết quả còn hạn chế.

Công tác đào tạo trí thức vẫn chưa đi đúng bản chất, mang nặng tính hình thức, thiếu thực tế, chưa có sức thuyết phục, nên chưa tạo nên một phong trào cách mạng trong các lĩnh vực hoạt động sáng tạo. Sự nhận thức về vai trò của trí thức và công tác xây dựng trí thức của nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý còn chưa đầy đủ và thiếu thống nhất. Nhìn chung, ở các vùng công nghiệp phát triển thì cán bộ lãnh đạo có ý thức coi trọng, đánh giá vai trò quan trọng của trí thức cao hơn vùng kinh tế chậm phát triển. Vai trò, vị trí của lao động sáng tạo của trí thức không phải lúc nào cũng được quan tâm đúng mức. Nhiều địa phương, đơn vị còn đề cao yếu tố vật chất, tiền vốn mà chưa coi trọng hoạt động sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng đất nước.


Thực tế cho thấy, việc triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng ĐNTT chủ yếu mới chỉ dừng ở cấp ủy và chính quyền cấp tỉnh, mà chưa được quán triệt sâu rộng đến chính quyền các cấp và đạc biệt chưa phổ biến sâu rộng ở cấp cơ sở và trong quần chúng nhân dân. Đây là một trở ngại không nhỏ tác động đến việc động viên, khuyến khích ĐNTT phát huy năng lực sáng tạo của mình và phát triển tiềm năng trí tuệ của đất nước.

Chưa làm tốt công tác vận động trí thức là một trong những nguyên nhân hàng đầu của tình trạng vừa thừa, vừa thiếu trí thức ở hầu hết các loại trình độ, trong hầu hết các lĩnh vực (khối ngành) và các vùng trong cả nước, sự phân bố ĐNTT không hợp lý giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng. Có những địa bàn có sức hấp dẫn cao, tập trung quá đông lực lượng trí thức, dãn đến tình trạng thừa cục bộ, trong lúc ở các địa bàn kém thuận lợi hơn lại không thu hút được trí thức tới làm việc, tạo ra tình trạng thiếu trí thức.

Dân chủ trong hoạt động sáng tạo vẫn chưa được phát huy trong hoạt động khoa học. Tại nhiều hội thảo khoa học, nhất là khoa học xã hội, hiếm có tranh luận giữa các ý kiến khác nhau, thường lảng tránh những vấn đề gai góc của hiện thực xã hội dù nó hiện diện hằng ngày. Thực tế đó làm mất đi niềm đam mê, và do vậy không ít người có thực học, thực tài đã rời xa con đường nghiên cứu sáng tạo.

Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém


Nguyên nhân dẫn tới nhiều cán bộ chưa coi trọng xây dựng ĐNTT là do trong thời kỳ chuyển đổi, vai trò của KH-CN, nhất là KHXH chưa được chú trọng đúng mức, vì thông thường, khi nền sản xũất vật chất còn phổ biến, thì các giá trị nguồn lực vật chất được đánh giá cao hơn và coi trọng hơn nguồn lực trí tuệ, tinh thần. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến xem nhẹ vai trò của trí tuệ, coi thường việc học, lười suy nghĩ, thụ động, ít chú ý trau dồi, rèn luyện để nâng cao nãng lực, trình độ.

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí