Coi Trọng Phát Huy Dân Chủ Thật Sự Trong Hoạt Động Sáng Tạo Của Trí Thức


Mỗi tổ chức hội trí thức cần xây dựng hệ tiêu chuẩn, quy định đạo đức nghề nghiệp, tạo mẫu số chung về phong cách nghề nghiệp, phù hợp với lĩnh vực, môi trường hoạt động, qua đó đặt cơ sở để mỗi thành viên phấn đấu, rèn luyện. Quy định đạo đức nghề nghiệp của mỗi ngành: báo chí, giáo dục, y tế,., chính là sự cụ thể hóa những yêu cầu phẩm chất đạo đức cách mạng, phù hợp với môi trường làm việc cụ thể của mỗi đối tượng. Cùng với mỗi lĩnh vực hoạt động, mỗi tổ chức hội trí thức cần xây dựng tiêu chuẩn đạo đức gắn với các tiêu chuẩn đã có trong quy định đạo đức nghề nghiệp, với các công việc hàng ngày. Thực hành đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp phải được thể hiện trong thực hiện nhiệm vụ, công việc hằng ngày. Qua đó, giúp trí thức có thêm cơ hội để rèn luyện, phấn đấu hoàn thiện mình, có phẩm chất đạo đức trong sáng.

Đồng thời với giáo dục, thực hành quy định đạo đức nghề nghiệp, cần thực hiện nghiêm túc pháp luật Nhà nước, xử lý nghiêm những cá nhân, tổ chức vi phạm, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái, biến chất.

4.2.4. Coi trọng phát huy dân chủ thật sự trong hoạt động sáng tạo của trí thức


Lao động sáng tạo, phát triển nhân tài đòi hỏi môi trường làm việc tự do, tôn trọng sáng kiến và nguyên vọng cá nhân. Để sáng tạo, trí thức cần có điều kiện hoạt động, trước hết là môi trường dân chủ, bầu không khí tự do tranh luận, bày tỏ chính kiến, từ đó hình thành phong cách cá nhân của trí thức.

Khi dân chủ được thực hiện đúng đắn sẽ tạo môi trường, động lực thúc đẩy các hoạt động trí tuệ, làm nảy nở tài năng. Dân chủ là điều kiện cần thiết, là nhu cầu của từng cá nhân và tập thể lao động sáng tạo. Tự do tư tưởng, độc lập suy nghĩ trong lao động sáng tạo là yêu cầu của cả trí thức văn nghệ sỹ, KHXH, và trí thức khoa học tự nhiên, KH-CN. Lịch sử phát triển khoa học thế giới đã chứng kiến những cản trở của tôn giáo, chính quyền đối với các phát minh về KHTN. ở các nước XHCN trước đây, trình độ ĐNTT khá cao, nhưng ít có những sáng tạo lớn tầm cỡ giải thưởng Nobel, hoặc có những công nghệ thay đổi cả thế hệ thiết bị, tạo nên


những bước nhảy vọt trong sản xuất hay đời sống, một phần là do hoạt động theo kế hoạch pháp lệnh đã hạn chế những ý tưởng mạnh bạo.

Trong những năm đổi mới, mặc dù Đảng và Nhà nước rất coi trọng tạo lập môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo trí tuệ, song đến nay, hành lang pháp lý về vấn đề này chưa được kiện toàn, ảnh hưởng đến sự cống hiến của trí thức. Việc xây dựng chính sách đối với trí thức chưa được coi trọng, chưa huy động được trí tuệ xã hội, thiếu cơ sở khách quan khoa học, chưa lường trước mọi tác động đến người thụ hưởng chính sách và chưa mang tính hệ thống. Chính sách, chế độ chủ yếu do các bộ, ngành chủ trì thực hiện, vì vậy còn mang tính cục bộ, manh mún.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.

Nhu cầu cơ bản của trí thức là được thừa nhận, được ghi nhận, trước hết là trong giới trí thức bởi trong hoạt động sáng tạo, quyền sở hữu riêng của một người được xác lập bằng cách cho đi tài sản của họ. Một kết quả hoạt động của cá nhân khó có thể được xã hội công nhận nếu thiếu dân chủ, chưa được xã hội tự do lựa chọn và kiểm chứng chân lý. Thực tế ở nhiều nước và ở Việt Nam cho thấy, rất cần đổi mới nhận thức về giới trí thức nhằm sớm tạo lập một môi trường tự do dân chủ thật sự để giải phóng mọi tiềm năng của trí thức, để trí thức chuyên tâm tìm tòi nghiên cứu, lao động sáng tạo biến các tiềm năng thành hiện thực.

Khi dân chủ được phát huy sẽ là động lực trực tiếp của trí thức chân chính, để cùng một vấn đề của cuộc sống họ có thể mở ra nhiều con đường tiếp cận nghiên cứu sáng tạo và đề xuất những giải pháp không giống nhau mà vẫn có thể đi tới cùng mục tiêu hay cho ra cùng kết quả.

Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2008 - 20

Dân chủ có cơ chế bảo đảm được thực thi, khi thị trường là nơi thể hiện tài năng và là thước đo đích thực sức sáng tạo của người trí thức sẽ tạo điều kiện hình thành các trường phái khoa học, các trường phái sáng tác hay trào lưu mới.

Môi trường hoạt động chỉ thực sự dân chủ khi các thể chế dân chủ lấy lợi ích của nhân dân, của dân tộc làm hệ quy chiếu cho mục đích, nội dung của toàn bộ quá


trình hoạt động. Môi trường dân chủ của trí thức được xác lập bởi chính sự thể hiện trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức nhân cách của ĐNTT. Dân chủ chỉ trở thành chìa khóa vạn năng khi nó được phát huy bởi người trí thức đứng trên tâm thế đúng đắn, hướng mọi khả năng của mình vào lợi ích của dân tộc, của nhân dân lao động, tôn trọng và thực hiện các quy định về bản quyền, sở hữu trí tuệ... Nếu thiếu tâm trong sáng, động cơ không lành mạnh, thì mở rộng dân chủ sẽ chỉ là căn cớ để lợi dụng nhằm phục vụ cho các âm mưu đen tối, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy, môi trường dàn chủ không chỉ tạo điều kiện để trí thức thể hiện tài năng của mình mà còn giúp cho trí thức có định hướng hoạt động đúng đán, góp phần mình vào sự tiến bộ của xã hội. Dân chủ trong hoạt động sáng tạo của trí thức chỉ có thể được xác lập bởi sự nhận thức và thực thi từ 3 đối tượng: Người lãnh đạo, quản lý, ĐNTT và người sử dụng sản phẩm trí tuệ do trí thức sáng tạo ra. Trong đó, những chủ trương, chính sách được ban hành và vai trò của những người làm công tác lãnh đạo, quản lý quá trình triển khai chủ trương, đường lối chi phối rất lớn tới môi trường hoạt động sáng tạo và quá trình phát triển của ĐNTT. Để bảo đảm dân chủ cần:

Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, trước hết là đối với khoa học xã hội. Vừa phải tạo mối trường thuận lợi, bầu không khí tin cậy và cởi mở để bảo đảm thực hiện dân chủ thực sự, phát huy đầy đủ quyền tự do tư tưởng của mỗi người trong quá trình tìm tòi chân lý qua thảo luận và tranh luận thẳng thắn, chân thành, không định kiến, lắng nghe ý kiến của nhau; vừa phải nêu cao tính đảng và ý thức trách nhiệm chính trị - xã hội của mỗi cán bộ khoa học trong và ngoài Đảng .

Trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng là tiền đề của dân chủ, sẽ không thể có dân chủ khi thiếu cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động sáng tạo làm việc trong các đơn vị tổ chức khác nhau. Trọng tạo lập và phát triển thị trường KH-CN phải nhận thức rò sản phẩm sáng tạo không phải do thị trường định giá như đối với hàng hóa dịch vụ thông thường mà thị trường KH-


CN cần được điều chỉnh bởi các định chế, quy định, luật lệ và mô hình thích hợp để khuyến khích hoạt động sáng tạo, phát triển. Trong đó, Nhà nước có vai trò quan trọng để KH-CN và thị trường tương tác, thúc đẩy nhau. Cùng với phát triển thị trường KH-CN, cần xây dựng quy chế liên kết giữa KH-CN với GD-ĐT, nghiên cứu giảng dạy với sản xuất kinh doanh, phát triển quan hệ liên kết giữa các tổ chức, cá nhân nhà khoa học với cở sở sản xuất, giữa cơ quan nghiên cứu triển khai với doanh nghiệp. Tổng kết mởi rộng mô hình ―chùm, nhóm liên kết‖, liên kết 3 nhà (nhà quản lý - nhà khoa học - nhà sản xuất), như mô hình liên kết Sở KH-CN, các sở ban ngành thành phố Hồ Chí Minh - các đơn vị sản xuất, dịch vụ - các trường đại học trên địa bàn, tạo điều kiện để các nhà khoa học tự do trực tiếp đến doanh nghiệp và doanh nghiệp chọn đúng người để hợp tác.

4.2.5. Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trong các lĩnh vực hoạt động

Nhấn mạnh việc khuyến khích các sáng kiến, sáng chế, động viên hơn nữa lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức; trọng dụng, đãi ngộ những người có cống hiến quan trọng; có chính sách chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần của người nghiên cứu, phát minh. Việc trọng dụng trí thức trong nước không chỉ phát huy vai trò của trí thức vì sự nghiệp phát triển của đất nước, mà còn có tác dụng to lớn đến việc thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.

―Nhà nước trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ sáng tạo và cống hiến; có chính sách và biện pháp để thu hút nhân tài vào việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước;...có chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến và có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với cá nhân có công trình khoa học và công nghệ đặc biệt xuất sắc, có cống hiến lớn đối với đất nước..

.Nhà nước có chính sách thỏa đáng về lương, điều kiện việc làm, chỗ ở đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ‖


Pháp lệnh năm 1985 quy định về các giải thưởng lớn: giải thường Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước dành cho đội ngũ trí thức. Năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Hội đồng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ; tổ chức Giải thưởng sáng tạo khoa học và công nghệ VIFOTEC

Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp từ năm 1989 các quyền tác giả và quyền sở hưu tác phẩm được đưa vào Bộ luật dân sự (năm 1995)...

Để nâng cao chất lượng đào tạo, Nhà nước đã đầu tư nguồn lực đáng kể cho việc đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại được áp dụng vào quá trình đào tạo; từng bước gắn đào tạo với sản xuất.

Thực tế cho thấy, để xây dựng ĐNTT đáp ứng yêu cầu cách mạng, chính sách đào tạo, bồi dưỡng tài năng phải không ngừng đổi mới, phù hợp với điều kiện, tình hình nhiệm vụ và xu hướng phát triển thời kỳ mới. Để khắc phục những yếu kém, nhược điểm, cần thống nhất quản lý nhà nước về đào tạo; tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục; cải cách chính sách đãi ngộ trí thức cho phù hợp với thực tế.

Đào tạo mới gắn với bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ hiện có để xây dựng ĐNTT có năng lực, thích ứng với tình hình thực tế. Đồng thời, có chính sách phát huy năng lực trí tuệ, vốn kiến thức, kinh nghiệm của trí thức cao tuổi, kể cả cán bộ đã về hưu.

Chiến lược đào tạo trí thức phải được xây dựng trong tổng thể chiến lược phát triển nguồn lực con người của quốc gia. Công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNTT có kế hoạch trong ngắn hạn và chiến lược dài hạn để phát triển ĐNTT đồng bộ về số lượng và chất lượng, có cơ cấu phù hợp.

Thực hiện nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cải cách nội dung và phương pháp giảng dạy, khuyến khích tinh thần tìm tòi, ham học tập của sinh viên.


Tiếp tục thực hiện phương châm xã hội hóa GD-ĐT, nâng cao chất lượng đào tạo trong nước đồng thời với gửi đi nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ ở nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau. Một bộ phận trí thức có biểu hiện suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống, thiếu ý chí rèn luyện phẩn đấu để nâng cao trình độ, năng lực, vươn tới những đỉnh cao trí tuệ, một phần xuất phát từ nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục - đào tạo trong nhà trường chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Trong tiến trình hội nhập quốc tế, việc tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại, thành tựu KH-CN của thế giới sẽ nâng cao trình độ văn hoá, KH-CN, phát huy- mạnh mẽ tiềm năng nội lực. Học tập, tiếp nhận văn hoá của nước ngoài, nhưng phải hướng về dân tộc mình. Bởi truyền thống lịch sử, văn hoá của mỗi dân tộc là cái cốt lòi của sức mạnh đấu tranh. Chỉ trên nền tảng văn hóa truyền thống của dân tộc, đảm bảo độc lập, chủ quyền, ý thức dân tộc, lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, mới có thể tiếp nhận và vận dụng sáng tạo, hiệu quả các thành tựu văn hóa, khoa học nước ngoài. Do vậy, phải khắc phục bệnh hướng ngoại, thờ ơ với văn hóa dân tộc,... Đồng thời, tránh những sai lầm về ―chủ nghĩa vị quốc‖, không khiêm tốn tiếp nhận có lựa chọn thành tựu văn hóa, KH-CN nước ngoài.

Đầu tư phát triển các lĩnh vực hoạt động sáng tạo và đổi mới cơ chế quản lý, tạo tiền đề tiên quyết để xây dựng đội ngũ trí thức

Phát triển mạnh thị trường KH-CN để góp phần nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có cơ chế, chính sách để sản phẩm khoa học thực sự trở thành hàng hóa được mở rộng lưu thông và trả công xứng đáng. Thực hiện pháp lệnh quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ, pháp lệnh quyền tác giả,.. Bên cạnh đó, nhiều lĩnh vực hoạt động của trí thức cần có sự "đỡ đầu" của Nhà nước, khống thể áp dụng cơ chế thị trường một cách đơn giản. Để có được sản phẩm trí tuệ có chất lượng cần trải qua quá trình học tập, rèn luyện bền bỉ, tích lũy kiến thức công phu trong thời gian dài và đầy khó khăn. Cơ chế khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần phù hợp sẽ tạo ra động lực để ĐNTT ngày càng cống hiến


nhiều cho xã hội. Trí thức, bên cạnh nhu cầu lợi ích vật chất còn một nhu cầu cao nữa đó là nhu cầu được ghi nhận, thừa nhận, nên chính sách đãi ngộ về vật chất gắn với tôn vinh về tinh thần sẽ tạo động lực để họ lao động sáng tạo. Do vậy, phải đổi mới chính sách tiền lương, thù lao, nhuận bút, khen thưòng phù hợp với thực tế để đảm bảo tái sản xuất sức lao đồng trí óc, để trí thức có đời sống ổn định, toàn tâm toàn ý cho hoạt động sáng tạo.

Về phương diện xây dựng nhân lực, đầu tư cho các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức là đầu tư phát triển năng lực sáng tạo của ĐNTT; đầu tư để khai thác tiềm năng chất xám gắn liền với tạo động cơ học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nhân tài đúng hướng, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng ĐNTT. Trong những năm 1991-2005, công tác tổ chức lao động khoa học còn yếu, chưa tập hợp được các nhà khoa học giỏi cùng một ngành, hoặc nhiều ngành có liên quan vào nghiên cứu một đề tài hoặc tham gia các chương trình, dự án lớn của đất nước.

Từ thực tế cho thấy, để phát huy hiệu quả tiềm năng trí tuệ hiện có, gắn với xây dựng ĐNTT cần xây dựng được cơ chế thích hợp nhằm tập hợp được lực lượng trí thức liên ngành từ các cơ quan nghiên cứu và trường đại học thuộc trung ương và địa phương, huy động được những nhà khoa học đầu đàn tham gia vào các dự án lớn mang tính liên ngành và có ý nghĩa KT-XH. Cần xây dựng cơ chế chỉ đạo nhằm gắn kết các tổ chức, cá nhân nhà khoa học với nhau, để các tổ chức KH-CN phối hợp nhau chặt chẽ, gắn bó hơn, tạo nên sức mạnh tổng hợp để tập trung trí tuệ giải quyết những vấn đề khoa học phức tạp nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống.

Có cơ chế chỉ đạo phối hợp hữu hiệu, xóa bỏ khoảng cách về thành phần kinh tế, địa lý,., không chỉ nâng cao hiệu quả năng lực sáng tạo mà còn trực tiếp góp phần đảm bảo sự phân công lao động hợp lý ĐNTT giữa các vùng miền, các lĩnh vực, khắc phục tình trạng phân bố bất hợp lý, tập trung quá lớn ĐNTT ở các cơ quan trung ương và các thành phố lớn như hiện nay.


Đổi mới đồng bộ hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý các hoạt động chủ yếu của trí thức, nhất là quản lý tài chính đối với các hoạt động KH-CN, phát huy hơn nữa hiệu quả của cơ chế "tam giác liên kết" để người đạt hàng nghiên cứu dự án chính là người ứng dụng kết quả nghiên cứu. Có như vậy, các nhà khoa học mới có điều kiện để thực hiện dự án và thành quả lao động khoa học của họ mới thật sự hữu ích cho xã hội.

Trên thực tế kinh phí đầu tư cho nghiên cứu, sáng tạo đã có cải thiện nhưng chưa đủ mạnh, chưa "đạt ngưỡng" để tạo ra những sản phẩm đột phá, có giá trị khoa học và thực tiễn cao. Cơ sở vật chất cho công tác nghiên cứu khoa học cơ bản và những công trình tầm cỡ chiến lược vẫn còn hạn chế. Để khắc phục tình trạng này cần đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động sáng tạo, huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho sự phát triển các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức, Nhà nước chủ yếu cấp kinh phí cho các tổ chức KH-CN hoặc nhóm các nhà khoa học thực hiện những nhiệm vụ nghiên cúu cơ bản, nghiên cứu lý luận, KHXH và nhân văn, quốc phòng, an ninh và những nhiệm vụ trọng điểm có tầm chiến lược.

Trong chính sách đào tạo và sử dụng trí thức, chế độ trọng dụng, đãi ngộ nhất là đối với trí thức tiêu biểu, nhân tài có nhiều cống hiến, có vị trí đặc biệt quan trọng. Chế độ chính sách đúng, được thực hiện nghiêm túc trên thực tế sẽ tạo động lực phấn đấu học tập, rèn luyện của ĐNTT. Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo, trọng dụng người tài là khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say mê học tập tu dưỡng vì tiền đồ bản thân và tương lai đất nước, tạo lên một vốn xã hội giàu có. Sử dụng và phát huy tốt ĐNTT trong nước là chính sách hữu hiệu nhất để thu hút các nhà trí thức, văn nghệ sỹ ở nước ngoài, kiều bào đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước.

Những kinh nghiệm đúc rút từ quá trình đào tạo, sử dụng trí thức Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - 2008) được áp dụng trong thực tế sẽ góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng ĐNTT thời kỳ mới, triển khai có hiệu

Xem tất cả 191 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí