Đánh Giá Chính Sách Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện

quan triển khai từ trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch bao gồm các bước sau:

+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi;

+ Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị;

+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện;

+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách;

+ Dự kiến về quy chế, nội dung, về tổ chức và điều hành thực thi chính sách BHXH tự nguyện.

Trong bước xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách BHXH tự nguyện thì các công việc như xác định các nguồn nhân lực, vật lực, thời gian thực thi chính sách luôn được cân nhắc kĩ lưỡng.

Bước 2: Tổ chức thực thi chính sách BHXH tự nguyện

Sau khi các văn bản, chương trình, dự án được ban hành và phê duyệt, các chủ thể thực thi được giao trách nhiệm tổ chức thi hành văn bản, và triển khai thực hiện chương trình, dự án này. Nội dung tổ chức thi hành văn bản và chương trình, dự án cụ thể có khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát thành các nội dung hoạt động dưới đây:

- Tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH tự nguyện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Đây cũng là công đoạn tiếp theo sau khi chính sách đã được thông qua, giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền nâng cao nhận thức, hiểu được mục tiêu, nội dung của chính sách BHXH tự nguyện, từ đó giúp cho chính sách triển khai được thuận lợi và có hiệu quả. Để làm được điều này thì cần đầu tư về trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật, các phương tiện để truyền tải các thông tin về chính sách BHXH tự nguyện cho cơ quan và nhân lực thực hiện.

Đối với chính sách BHXH tự nguyện việc tuyên truyền cần phải thực hiện thường xuyên, liên tục, cả trước và trong khi chính sách đang được thực thi. Để tuyên truyền đạt hiệu quả cần sử dụng nhiều hình thức khác nhau như tiếp xúc

Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - 10

trực tiếp, gián tiếp; trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua loa truyền thanh trên địa bàn.

- Phân công, phối hợp thực thi chính sách BHXH tự nguyện.

Một chính sách thường được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm nhau, bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp, các ngành để triển khai thực thichính sách.

Nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực thi chính sách một cách chủ động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.

Khi triển khai thực thi cần phân công rành mạch, phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành; cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan QLNN về BHXH, ngành BHXH và các cơ quan có liên quan.

- Điều chỉnh chính sách BHXH tự nguyện.

Việc làm này cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách, được thực thi bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh).

Việc điều chỉnh phải giữ vững mục tiêu ban đầu của chính sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.

Điều chỉnh chính sách BHXH tự nguyện nhằm chỉnh sửa, đổi mới, bổ sung về đối tượng, mục tiêu và nội dung của chính sách cho phù hợp với thực tiễn.

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách BHXH tự nguyện.

Bất cứ triển khai nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách này được thực thi đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.

Các cơ quan Nhà nước thực hiện việc kiểm tra và nếu tiến hành thường xuyên thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết luận chính xác về chính sách.

Hoạt động kiểm tra cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.

Việc kiểm tra, theo dõi là việc quan trọng, nhằm thực thi cơ chế chính sách cho đúng đối tượng, phát hiện những sai phạm và xử lý kịp thời. Có thể nói bước này rất quan trọng, bởi vì nếu công tác thanh tra, kiểm tra thực thi chính sách BHXH không được thực thi nghiêm túc thì ảnh hưởng đến hiệu quả chính sách.

Bước 3: Sơ kết, tổng kết việc thực thi chính BHXH tự nguyện

Định kỳ các chủ thể thực thi chính sách công tiến hành sơ kết, tổng kết kết quả thực hiện. Việc sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách được tiến hành theo trình tự từ dưới lên trên.

Khâu này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách BHXH tự nguyện. Trong quá trình này có thể đánh giá từng phần hay toàn bộ chính sách. Hoạt động đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan Nhà nước và đối tượng thực thi chính sách.

Trong báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo đánh giá giữa kỳ, báo cáo đánh giá kết thúc cần thể hiện rõ quá trình triển khai thực hiện, những kết quả đạt được, những hạn chế và đề xuất những kiến nghị đối với cấp trên để xử lý những vướng mắc trong tổ chức thực hiện.

2.2.3.3. Đánh giá chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện

Đánh giá chính sách công là giai đoạn xem xét tác động của chính sách công đến từng đối tượng hay quá trình phát triển, đo lường kết quả và hiệu quả tác động của một chính sách trong thực tế sau khi thực thi chính sách. Đánh giá chính sách xem xét trung thực kết quả đầu ra các hoạt động trong quy trình chính sách công, nhận định có hệ thông những tác động do việc thực hiện các giải pháp chính sách công mang lại và so sánh nó với mục tiêu ban đầu để xác định mức độ đạt được mục tiêu mong muốn về lượng và chất [66.tr319].

Đánh giá chính sách công là những hoạt động có tính hệ thống, nằm trong một tiến trình; các hoạt động này kiểm tra toàn bộ các khía cạnh của một can thiệp

chính sách (đầu vào, các hoạt động thực hiện, kết quả đầu ra và các tác động) và làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực [60.tr19].

Như vậy, có các quan niệm khác nhau về đánh giá chính sách. Có quan niệm đánh giá chính sách chỉ đánh giá đầu ra hay hiệu quả thực thi chính sách; có quan niệm đánh giá chính sách có thể thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quy trình chính sách và có nhiều hình thức khác nhau (đánh giá trước; đánh giá sau; đánh giá hoạt động; đánh giá tác động; đánh giá chéo; đánh giá đầu kỳ, giữa kỳ và cuối kỳ).

Đánh giá chính sách nhằm cung cấp cho các cơ quan nhà nước những thông tin hữu dụng và kịp thời để quản lý, điều phối các nguồn lực và đưa ra những can thiệp chính sách nếu cần.

Đánh giá chính sách BHXH tự nguyện nhằm cung cấp cho các cơ quan nhà nước hoạt động trong lĩnh vực BHXH tự nguyện có đầy đủ các thông tin, bằng cớ để hoạch định và thực thi chính sách BHXH tự nguyện; đưa ra những can thiệp chính sách kịp thời để hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính sách.

Các tiêu chí được sử dụng phổ biến trong đánh giá chính sách công nói chung là hiệu lực chính sách; hiệu quả chính sách; đánh giá tính công bằng của chính sách; tính đáp ứng và tính toàn diện của chính sách.

Hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ đạt được mục tiêu của chính sách. Hiệu lực của chính sách có hiệu lực lý thuyết và hiệu lực thực tế. Đối với chính sách BHXH tự nguyện hiệu lực của chính sách được đánh giá ở các khía cạnh như chính sách có được nhiều người biết đến hay không; chính sách có được các cơ quan có liên quan triển khai và thực thi trong thực tế không?

Hiệu quả của chính sách phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được với nguồn lực đầu vào của chính sách. Đánh giá hiệu quả nhằm đánh giá các chi phí của chính sách vì vậy cần xác định được chi phí đầu vào và đầu ra của chính sách. Đánh giá hiệu quả đặc biệt có ý nghĩa đối với việc triển khai một chính sách trong điều kiện nguồn lực và kinh phí hạn hẹp. Đánh giá hiệu quả của chính sách BHXH tự nguyện cũng cần xác định được chi phí đầu vào và đầu ra của chính sách BHXH tự nguyện.

Đánh giá tính công bằng của chính sách liên quan chặt chẽ đến vấn đề phân phối, giải quyết mối quan hệ giữa phân bổ nguồn lực và tác động, hiệu quả của chính sách. Đối với chính sách BHXH tự nguyện các yêu cầu về tính công bằng là sự công bằng về vị thế chính sách so với BHXH bắt buộc; sự quan tâm, đầu tư về nguồn lực và hành động để đạt được mục tiêu chính sách; phương hướng hành động để đạt được công bằng cho đối tượng tham gia BHXH tự nguyện so với những đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Tính đáp ứng của chính sách phản ánh một chính sách có thỏa mãn các nhu cầu, các giá trị của các nhóm đối tượng của chính sách hoặc các nhóm liên quan. Tính đáp ứng của chính sách phản ánh hiệu lực thực tế và phần nào thể hiện sự khả thi và hữu dụng của chính sách trong thực tế. Tính đáp ứng của chính sách BHXH tự nguyện phản ánh chính sách có đáp ứng được nhu cầu của các bên liên quan như đối tượng tham gia chính sách, các bên thực thi chính sách và quản lý chính sách. Quan tâm đến tính đáp ứng của chính sách BHXH tự nguyện là quan tâm đến việc chính sách có hiệu lực thực tế không, tính hữu dụng và khả năng thành công của chính sách. Tính đáp ứng của chính sách BHXH tự nguyện có thể được đánh giá bằng độ bao phủ của chính sách BHXH, tốc độ tăng trưởng của lượng người tham gia BHXH tự nguyện.

Tính toàn diện của chính sách thỏa mãn các vấn đề như mức độ bao trùm của chính sách đối với vấn đề cần giải quyết; nội dung chính sách đã bao trùm đầy đủ các khía cạnh hay không. Mỗi một vấn đề chính sách có nhiều khía cạnh cần giải quyết; nhiều phương án chính sách; nhiều phương thức thực thi chính sách và hệ thống các mục tiêu. Đánh giá tính toàn diện của chính sách là quan tâm đầy đủ đến các nội dung trên và sắp đặt, giải quyết được từng vấn đề đó.

Trong thực tế, để đánh giá chính sách BHXH tự nguyện ta có thể sử dụng các tiêu chí tốc độ gia tăng người tham gia BHXH tự nguyện, tỷ lệ bao phủ BHXH tự nguyện; tốc độ gia tăng tỷ lệ bao phủ BHXH tự nguyện.

2.3. Các yếu tố tác động đến chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện

2.3.1. Thể chế về bảo hiểm xã hội tự nguyện

Quan điểm, lập trường của thể chế chính trị về một vấn đề ở các quốc gia sẽ quyết định quá trình tồn tại, phát triển hay suy thoái của vấn đề đó. Nếu như vấn đề được quan tâm, thì Nhà nước sẽ đầu tư nguồn lực, kinh phí để phát triển và ngược lại nếu như vấn đề không được quan tâm, coi trọng thì vấn đề đó sẽ không có cơ hội để phát triển.

Quan điểm của đảng cầm quyền và nhà nước không chỉ là cơ sở để hình thành hệ thống chính mà còn là cơ sở để hình thành các điều kiện cần thiết khác cho để thực hiện chính sách như: bộ máy; nguồn nhân lực; nguồn lực tài chính và nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đó.

Chính sách BHXH là một loại chính sách công, là chính sách nòng cốt của chính sách ASXH. BHXH tự nguyện là một mảng ghép hoàn chỉnh để hoàn thiện và mở rộng độ bao phủ của chính sách BHXH. Vì vậy, thể chế lãnh đạo và quản lý nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến chính sách BHXH tự nguyện. Các yếu tố thuộc về thể chế lãnh đạo như quyết tâm chính trị của đảng cầm quyền, thể hiện thông qua việc tham gia các Công ước quốc tế về ASXH của ILO và Liên hợp quốc; quyết tâm phát triển BHXH tự nguyện của hệ thống chính trị các cấp… sẽ tác động đến chính sách BHXH tự nguyện

Sự ra đời và phát triển của chính sách BHXH tự nguyện chịu ảnh hưởng rất lớn của tư duy và quan điểm chính trị về chính sách BHXH tự nguyện của thể chế lãnh đạo. BHXH là một chính sách đã được thực hiện rất lâu đời, tuy nhiên chủ yếu phát triển trong môi trường làm việc có quan hệ lao động, khu vực việc làm chính thức. Việc phát triển BHXH tự nguyện hay BHXH cho nông dân và NLĐ phi chính thức bắt nguồn từ việc nhận thức được sự cần thiết trong đảm bảo ASXH cho tất cả NLĐ.

Từ quyết tâm chính trị, các điều kiện cần thiết cho việc tham gia BHXH tự nguyện cũng được ban hành như việc cải thiện thủ tục hành chính, đầu tư tài chính, thay đổi cách thức triển khai chính sách, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan

BHXH với các cơ quan liên quan để triển khai BHXH tự nguyện sẽ làm cho BHXH tự nguyện trở nên dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu và tham gia hơn.

Như ở Việt Nam, thời gian đầu BHXH chỉ tồn tại trong khu vực kinh tế tập thể và khu vực kinh tế nhà nước. Sau này, khi đổi mới thể chế kinh tế và chính trị BHXH đã được thực hiện trong các khu vực kinh tế khác nhưng vẫn chỉ áp dụng cho khu vực có quan hệ lao động. Lao động khu vực kinh tế phi chính thức và nông dân vẫn không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Thực tế chính sách này dẫn tới những bất cập như khó khăn trong phát triển đối tượng tham gia BHXH. Với việc ban hành Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH ở Việt Nam bao gồm cả BHXH tự nguyện đã tạo cho BHXH tự nguyện một vị thế chính trị mới sau 10 năm ra đời. Từ một chính sách được ban hành chủ yếu chỉ để hoàn thiện về mặt ý nghĩa của chính sách BHXH, ít được các cấp chính quyền quan tâm triển khai thì đến thời điểm này chính sách BHXH tự nguyện đã trở thành một hợp phần quan trọng của chính sách BHXH và chính sách ASXH cho NLĐ phi chính thức ở Việt Nam.

2.3.2. Đặc điểm tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

BHXH ra đời chịu sự ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên của các quốc gia. Điều kiện tự nhiên càng thuận lợi khả năng kiếm được thu nhập cao của người dân càng cao vì vậy họ sẽ có tích lũy và tái đầu tư, giảm rủi ro trong cuộc sống. Ngược lại, nếu các điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nhiều thiên tai thảm họa thì nhu cầu của con người đối với bảo hiểm sẽ tăng để bảo vệ tài sản và thu nhập của mình. Đây cũng chính là nhu cầu tất yếu khiến ngành bảo hiểm được sinh ra. Vì vậy, càng ở những vùng điều kiện tự nhiên không thuận lợi thì BHXH càng trở nên cần thiết đối với người dân.

Điều kiện phát triển kinh tế của đất nước và của các địa phương ảnh hưởng đến sự thành công trong phát triển chính sách BHXH tự nguyện. Điều kiện kinh tế phát triển, tăng trưởng kinh tế cao sẽ dẫn đến cải thiện đời sống của toàn xã hội, lúc này người dân sẽ quan tâm đến chất lượng cuộc sống và phương thức để cải thiện chất lượng cuộc sống chính là bảo vệ thu nhập thông qua các hình thức bảo hiểm.

Những đặc điểm về cơ cấu kinh tế và thành phần kinh tế cũng ảnh hưởng đến chính sách BHXH tự nguyện. Ở những nước có trình độ kinh tế phát triển, cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại thì NLĐ chủ yếu làm việc trong khu vực kinh tế có quan hệ lao động, số NLĐ trong khu vực phi chính thức ít vì vậy việc hình thành hay không hình thành chính sách BHXH tự nguyện không gây tác động lớn. Tuy nhiên ở những nước có nền kinh tế chưa phát triển, số lao động trong khu vực phi chính thức nhiều thì việc hình thành chính sách BHXH tự nguyện cho LĐPCT là điều kiện bắt buộc để đảm bảo ASXH.

Sự phát triển của hệ thống giáo dục cũng ảnh hưởng đến chính sách BHXH tự nguyện. Giáo dục phát triển, trình độ dân trí được nâng cao người dân sẽ hình thành lối sống văn minh, kỷ luật, tự giác có ý thức tham gia BHXH. Ngược lại, giáo dục kém phát triển trình độ dân trí không cao thì người dân sẽ không có hiểu biết về BHXH, về sự cần thiết của BHXH, cho rằng BHXH không tin cậy và không an toàn, chính những điều này gây ra khó khăn trong phát triển chính sách BHXH tự nguyện.

Những đặc điểm về dân số có ảnh hưởng quyết định đến sự ra đời và thành công của chính sách BHXH tự nguyện. Những đặc điểm về dân số, lao động, việc làm và thu nhập sẽ tạo ra thực tế xã hội có nhu cầu hay không có nhu cầu với loại hình BHXH tự nguyện. Nếu có “cầu” thì chắc chắn phải có “cung” để đáp ứng, đây là tất yếu khách quan của xã hội. Nếu dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động cao, số người hưởng lương hưu sẽ thấp và chưa có sự khủng hoảng về thu nhập đối với người cao tuổi. Nhưng nếu dân số già hóa và già, yêu cầu tạo ra sự đảm bảo thu nhập cho những người cao tuổi trở nên cấp bách và Nhà nước không thể không hành động để tạo ra sự đảm bảo này. Vì vậy, những đặc điểm về quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển chính sách BHXH.

Chính sách BHXH tự nguyện cũng chịu tác động của tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội ở các quốc gia. Tình trạng thu nhập khác nhau dẫn đến xu hướng phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Đối với những người có thu nhập từ trung bình và cao trong khu vực phi chính thức mức đóng góp không phải là vấn

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 17/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí