Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Của Một Số Nước Trên Thế Giới

nước ta được hình thành từ sự đóng góp của NLĐ với mức đóng hằng tháng bằng 16% mức thu nhập NLĐ lựa chọn đóng BHXH, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng tăng thêm 2%, cho đến khi đạt mức đóng 22% mức thu nhập làm căn cứ tính đóng BHXH thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung [41, Điều 100].

Như đã phân tích ở phần trên thì đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện là những NLĐ tự do, không có quan hệ lao động với nguồn thu nhập hằng tháng thấp và không ổn định, trong khi mức đóng phí bảo hiểm lại khá cao so với thu nhập của NLĐ nói chung. So sánh cho thấy mức đóng góp của NLĐ tham gia BHXH tự nguyện cao gấp 3 lần so với mức đóng của người tham gia BHXH bắt buộc. Thực tế đã cho thấy đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho NLĐ chưa muốn tham gia chính sách này và ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì sự bền vững nguồn quỹ một cách lâu dài.

Cơ chế tổ chức và quản lý quỹ BHXH nói chung được thiết lập theo hệ thống các cơ quan quản lý và thực hiện bảo hiểm từ trung ương đến địa phương. Đứng đầu là Hội đồng quản lý BHXH do Chính phủ thành lập và quy định về quy chế làm việc. Hội đồng quản lý BHXH quyết định hình thức đầu tư quỹ BHXH theo đề nghị của tổ chức BHXH. Do vậy, quỹ BHXH tự nguyện cũng được quản lý theo mô hình chung này.

Tóm lại, sau hơn 7 năm thực hiện, Luật BHXH 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đi vào cuộc sống, phát huy vai trò tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ và góp phần thực hiện chính sách ASXH của Nhà nước. Đặc biệt, với việc triển khai hình thức BHXH tự nguyện ở nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi NLĐ đều có thể tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH. Trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội phát triển liên tục ở mức độ tương đối cao, thu nhập của người dân đã khá hơn thì chính sách BHXH tự nguyện đã có tác động tích cực và là một bước ngoặt lớn

trong lộ trình thực hiện BHXH – BHYT ở nước ta. Ngoài vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống cho NLĐ và ổn định tình hình chính trị - xã hội, thì BHXH tự nguyện còn là một giải pháp cần thiết để Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng và vững chắc, hạn chế sự phân hóa xã hội trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, khi áp dụng vẫn có nhiều nội dung của Luật BHXH 2006 về BHXH tự nguyện còn bất cập, không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm người dân chưa thật sự “mặn mà” với chính sách này của Nhà nước.

Trước những hạn chế đó, ngày 20/11/2014 Quốc hội đã thông qua Luật BHXH sửa đổi, bổ sung 2014 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016, thay thế Luật BHXH 2006. Với những quy định theo hướng mở rộng đối tượng, nâng cao chất lượng chính sách, hoàn thiện nguyên tắc đóng – hưởng nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút mọi đối tượng lao động vào tham gia, trong đó trọng tâm là hình thức BHXH tự nguyện.

Về mặt lý luận, thì đây là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội. Nhưng về ý nghĩa xã hội – chính trị thì đây là một chính sách đáp ứng nguyện vọng của đông đảo NLĐ, đặc biệt là người nông dân, công nhân và lao động tự do có thu nhập thấp, không ổn định nhằm đảm bảo ASXH và là một tiêu chí quan trọng để một quốc gia tham gia hội nhập quốc tế. Do vậy, khi triển khai Nhà nước cần có những giải pháp hiệu quả để nâng cao nhận thức của người dân đối với chính sách này.

1.2.2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện của một số nước trên thế giới

Nhiều nước trên thế giới thực hiện BHXH tự nguyện, tuy nhiên do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên không có mô hình tổ chức BHXH tự nguyện chung cho tất cả các nước. Mỗi nước có cách thức tổ chức thực hiện và chế độ riêng, phù hợp với đặc điểm của từng nước.

Theo “Đề án mở rộng đối tượng tham gia BHXH giai đoạn đến năm 2020” của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2012 phân tích một số mô hình tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện của một số nước trong khu vực, cụ thể:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

1.2.2.1. Trung Quốc

Ngay từ những ngày đầu Trung Quốc giành độc lập thì các chính sách và chế độ về ASXH đã được ban hành. Năm 1950 chính sách nhằm trợ giúp và giải quyết vấn đề công nhân thất nghiệp từ chế độ cũ để lại đã được triển khai. Năm 1951 chế độ bảo hiểm về hưu trí, tàn tật, tử tuất, ốm đau, chăm sóc y tế, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản đã được áp dụng đối với một số đối tượng. Sau đó Trung Quốc đã ban hành một loạt các chính sách, chế độ về ASXH bao gồm cả cứu tế xã hội, chế độ đối xử và chăm sóc đặc biệt nhằm không ngừng đẩy mạnh và điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu nâng cao của xã hội. Tuy nhiên, phạm vi của chế độ ASXH cho đến những năm giữa của thập kỷ 80 về cơ bản mới được thực hiện ở khu vực thành phố và tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước [35, tr.3]. Theo quy định thì NSDLĐ phải đăng ký cả 5 chế độ BHXH cho NLĐ (chế độ hưu trí cơ bản, bảo hiểm y tế cơ bản, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm thất nghiệp và chế độ thai sản). Cùng với BHXH bắt buộc giành cho cán bộ, công chức và NLĐ khu vực chính thức, Trung Quốc đã thực hiện BHHT tự nguyện cho NLĐ thuộc khu vực phi chính thức đang làm việc cho các doanh nghiệp, NLĐ tự làm và lao động trong khu vực nông nghiệp ở cả nông thôn và thành thị, theo hai chương trình: chương trình BHHT thành thị và chương trình BHHT nông thôn. Trong đó, chương trình BHHT nông thôn của Trung Quốc tuy thực hiện theo từng giai đoạn khác nhau nhưng về bản chất chính sách thì tương tự như BHXH tự nguyện ở nước ta. Cụ thể, sự phát triển của hệ thống hưu trí nông thôn Trung Quốc được chia ra làm 4 giai đoạn chính là: giai đoạn khởi đầu và mở rộng (1986-1990); giai đoạn thu hẹp và ngưng trệ (1999-2002); giai đoạn khôi

Áp dụng pháp luật Bảo hiểm tự nguyện theo Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam - 7

phục (2003-2009); giai đoạn thực hiện chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn mới (từ tháng 10/2009 đến nay).

Trong đó, giai đoạn thực hiện chương trình bảo hiểm hưu trí nông thôn mới là giai đoạn đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận và đã hoàn toàn thu hút được người dân tham gia. Từ tháng 10/2009, Trung Quốc thí điểm chế độ BHHT nông thôn mới, với 4 nguyên tắc là: đảm bảo mức sống cơ bản của người già ở nông thôn; độ che phủ rộng; cơ chế tài chính linh hoạt; đảm bảo tính bền vững lâu dài của quỹ. Cụ thể các nội dung chính của chương trình này hướng đến bao gồm:

Đối tượng áp dụng là tất cả mọi người sống tại vùng nông thôn (có hộ khẩu thường trú) trên 16 tuổi đều có quyền tham gia nếu chưa tham gia vào chương trình BHHT thành thị.

Quỹ BHHT nông thôn mới hình thành từ ba nguồn là đóng góp của cá nhân, hỗ trợ của tập thể và trợ cấp của Chính phủ (trước đây hoàn toàn do người nông dân tự chi trả và không có bất kỳ trợ cấp nào từ Chính phủ). Mức nộp phí cá nhân và tiền hỗ trợ của tập thể đều được ghi vào tài khoản cá nhân, thuộc sở hữu cá nhân. Theo quy định của Trung Quốc, nông dân nộp phí BHHT với 5 mức (100, 200, 300, 400 và 500 NDT), tối thiểu 100 NDT/năm. Địa phương có thể điều chỉnh mức đóng tùy theo điều kiện kinh tế địa phương (như Bắc Kinh là hơn 2.000 NDT/năm). Đối với người nghèo, thu nhập quá thấp, không thể đóng bảo hiểm thì địa phương có thể giảm xuống dưới mức tối thiểu (100 NDT). Đối với người khuyết tật, người mất sức lao động thì thấp hơn 100 NDT hoặc miễn. Như vậy, kinh phí chương trình sẽ bao gồm: trợ giúp của chính quyền trung ương cho phần đóng hưu trí cơ bản (100% cho vùng trung tâm và vùng miền Tây, 50% cho vùng miền Đông); đóng góp cá nhân (từ 100 đến 500 NDT/năm tùy theo lựa chọn của NLĐ); một phần đóng góp đối ứng từ phía chính quyền địa phương, tối thiểu là 30 NDT/năm; trợ giá của tập thể, khoản này khuyến khích, không bắt buộc và không ấn định mức.

Trong những tháng đầu triển khai mọi người hầu hết đều lựa chọn mức 100 hoặc 500 NDT, một số tỉnh và huyện duyên hải nông dân chọn mức cao hơn, lên đến 2.500 NDT.

Theo quy định pháp luật điều kiện hưởng chế độ BHHT nông thôn mới của Trung Quốc là 60 tuổi (cả nam và nữ) và có thời gian đóng góp tối thiểu 15 năm. Những người đã quá 60 tuổi khi chương trình khởi động cũng có thể được hưởng hưu cơ bản nếu con cái họ tham gia đóng góp. Những người khi đến 60 tuổi mà vẫn chưa đủ thời gian đóng góp 15 năm thì được đóng một lần cho đủ số tháng còn thiếu để có đủ thời gian đóng góp cần thiết.

Mức hưởng chế độ BHHT nông thôn mới của Trung Quốc, theo quy định thì người tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng lương hưu gồm hai phần là phần do Chính phủ đảm bảo và phần còn lại được tính từ tài khoản của cá nhân. Trong đó, phần do Chính phủ đảm bảo là 55 NDT/tháng và có thể được chính quyền địa phương nâng lên tùy theo nguồn ngân sách của họ; còn phần từ tài khoản cá nhân bằng tổng số tồn tích trong tài khoản tính đến khi hưởng lương hưu chia cho 139 tháng.

Công tác tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện cũng được pháp luật Trung Quốc quy định rò trong vấn đề quản lý quỹ và chi trả chế độ cho các đối tượng tham gia bảo hiểm. Chính quyền Trung ương và địa phương cùng chia sẻ trách nhiệm đối với quản lý về ASXH. Nhiệm vụ của chính quyền Trung ương chủ yếu là đưa ra các quy định, chính sách và mức chuẩn chung trong toàn quốc và cung cấp các trợ giúp tài chính đối với khu vực đặc biệt khó khăn. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về đưa ra các quy định, chính sách và mức chuẩn tại địa phương nhưng phải phù hợp với quy định của Trung ương; tổ chức thu các khoản đóng góp và chi trả trợ cấp về ASXH. Tại Trung ương và địa phương, các cơ quan BHXH được thành lập với số cán bộ, nhân viên lên đến trên 100.000 người trong toàn quốc. Nhiệm vụ chính

của cơ quan BHXH là tiếp nhận đăng ký tham gia bảo hiểm, tổ chức thu đóng bảo hiểm; hạch toán các khoản đóng góp, quản lý tài khoản cá nhân của người tham gia, kiểm tra về tính phù hợp của các yêu cầu, thực hiện các khoản trợ cấp, quản lý quỹ BHXH. Cơ quan BHXH cũng chịu trách nhiệm trong việc thực hiện thoả thuận về BHXH giữa Trung Quốc và các nước khác. Việc quản lý quỹ thực hiện tại cấp huyện, Văn phòng địa phương của Bộ Nguồn nhân lực và An sinh xã hội thực hiện giám sát quỹ. Tất cả các chi phí hành chính và vận hành chương trình sẽ được phân bổ từ ngân sách trung ương. Việc chi trả cho các đối tượng được hưởng thông qua hệ thống ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng ở xã (trường hợp ở xã không có tổ chức tín dụng, Trưởng thôn có trách nhiệm lĩnh và chi trả cho đối tượng được hưởng).

Chính sách BHHT nông thôn mới của Trung Quốc được xây dựng với hai chương trình là chương trình cho thành thị và chương trình cho nông thôn, với mục tiêu là tăng diện bao phủ rộng dù mức hỗ trợ thấp, mức tối thiểu đa tầng và bền vững về nhiều chiều với nguyên tắc bao cấp hai đầu, nguyên lý thực hiện là ba trong một cho tối thiểu, tự nguyện và mở rộng. Chương trình BHXH của Trung Quốc cũng tập trung hướng đến khuyến khích người dân nông thôn, đặc biệt là người nghèo tham gia. Đồng thời, nhằm xóa bỏ khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, BHXH Trung Quốc luôn áp dụng theo nguyên tắc lấy chính sách hưởng BHXH của thành thị áp dụng cho nông thôn. Kết quả đạt được của chương trình BHXH ở Trung Quốc thực sự ngoài mong đợi, từ năm 2009 đến năm 2011, đã có 100% các huyện của Trung Quốc tham gia chương trình hưu trí, độ bảo phủ là 60% dân số tham gia bảo hiểm, năm 2012, ở nông thôn có 120 triệu người tham gia BHXH, thành thị là 284 triệu người và có đến 60% người cao tuổi được hưởng hưu trí. Hiện nay mức hưởng BHHT trung bình là 1.320 NDT/năm, trong đó mức trợ cấp tối thiểu của Nhà nước là 55 DT/tháng, địa phương bổ sung tùy theo điều kiện kinh tế

của địa phương (ví dụ Bắc Kinh là 280 NDT/tháng) [14, tr.21]. Tuy nhiên, hạn chế lớn của chương trình này là chưa giải quyết được vấn đề liên thông của quỹ khi NLĐ đang tham gia hệ thống hưu trí nông thôn, sau đó di chuyển sang làm việc và tham gia hệ thống lương hưu của doanh nghiệp thành thị hoặc ngược lại. Trong khi đó vấn đề này đang diễn ra thường xuyên, đặc biệt là xu thế đô thị hoá đang diễn ra ngày càng nhanh tại Trung quốc.

BHXH tự nguyện của Trung Quốc hoàn toàn thu hút được người dân và đáp ứng được mục tiêu của chính sách ASXH Nhà nước. Trung Quốc là một nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về vị trí địa lý, nền văn hóa, thể chế chính trị với Việt Nam. Đây sẽ là điều kiện để nước ta hoàn thiện quy định pháp luật và thực hiện tốt hơn chính sách BHXH tự nguyện. Tại chương trình hội thảo với nội dung “Định hướng mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến năm 2050, các giải pháp và lộ trình thực hiện” diễn ra ngày 2/7/2015 ở Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, các nhà khoa học đã nêu ra các vấn đề cơ bản của BHXH Việt Nam hiện hành, từ đó đưa ra nhận định về những điểm mới trong Luật BHXH sửa đổi, bổ sung năm 2014 có hiệu lực từ 1/1/2016, trong đó nhấn mạnh đến việc sửa đổi những quy định về BHXH tự nguyện với những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về BHXH nên thực hiện ở Việt Nam.

1.2.2.2. Indonesia

Indonesia là quốc gia có số NLĐ thuộc khu vực phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn (hiện chiếm 2/3) trong tổng lực lượng lao động của nước này. Với quy mô dân số đứng hàng thứ tư thế giới và sự phát triển kinh tế nhanh, năng động trong thập kỷ qua, Indonesia đang đối mặt với những thách thức và đòi hỏi có được các giải pháp toàn diện về các vấn đề xã hội để đảm bảo ổn định xã hội và làm động lực phát triển bền vững đất nước. Một trong những đòi hỏi cấp thiết là việc xây dựng một hệ thống ASXH quốc gia cho mọi người dân. Do vậy, chính sách ASXH và các chế độ phúc lợi xã hội được các nhà cầm quyền đặc biệt chú trọng.

Đạo luật số 3 năm 1992 về BHXH đối với NLĐ đã quy định đối với mọi NLĐ có quan hệ lao động hay không thì BHXH bắt buộc quy định đối với công ty có ít nhất 10 lao động và tổng quỹ lương lớn hơn 1 triệu ngoại trừ NLĐ khu vực phi chính thức. Theo điều tra của các nhà chức trách Indonesia thì các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng khu vực phi chính thức sẽ bao gồm: thu nhập thường xuyên thấp và không ổn định là nguyên nhân chính trong việc đảm bảo khả năng tham gia đóng và việc thiết lập mức tiền lương hàng tháng là rất khó. Cộng với việc không có phần tham gia đóng góp của NSDLĐ dẫn đến NLĐ không đủ sức để chi trả toàn bộ mức đóng; loại hình và mức độ của các chế độ không tương ứng với các nhu cầu cần được ưu tiên của NLĐ khu vực này. Trong khi việc cần lập ra đầy đủ các loại chương trình BHXH thì chương trình hiện tại lại không thể cung cấp các nhu cầu mang tính linh hoạt của NLĐ khu vực phi chính thức. Ví dụ như chương trình thương tật nghề nghiệp chỉ áp dụng cho một số trường hợp tai nạn tại nơi làm việc và một số quyền lợi đối với những bệnh được liệt trong danh sách được cung cấp bởi NSDLĐ và các báo cáo y tế. Vì vậy mà những NLĐ khu vực phi chính thức không thể đáp ứng được các yêu cầu hành chính đối với điều kiện tai nạn lao động là phải xảy ra tại nơi làm việc; sự thiếu nhận thức và hiểu biết về các khái niệm cũng như các chế độ hiện hành của BHXH; không tin tưởng vào các tổ chức của Nhà nước về lĩnh vực này dẫn đến việc không sẵn sàng tham gia BHXH; khả năng quản lý còn yếu kém trong khi các mảng hoạt động cần được quản lý tốt như: việc đăng ký, mức tuân thủ, việc thu các khoản đóng và ghi chép các diễn biến; việc giới hạn về độ tuổi tham gia là 55 tuổi; mức thu nhập căn cứ đóng thường căn theo tiền lương tối thiểu vùng. Tuy nhiên điều này khá khó khăn trong việc xác định đối với NLĐ khu vực phi chính thức. Việc xác định các nhu cầu cần được ưu tiên và khả năng đóng góp cho NLĐ thuộc khu vực phi chính thức khác nhau theo tình trạng xã hội và tình trạng gia đình (phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người già), sự khác nhau về các công việc đặc thù (công

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022