Sự Cần Thiết Áp Dụng Chế Tài Đối Với Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh

hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm) [29, tr.27]. Tương tự như vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng quy định về chế tài hạn chế cạnh tranh trong nhiều văn bản luật khác nhau như Luật Cạnh tranh, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại…

1.2.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh

1.2.2.1. Ảnh hưởng của các hành vi hạn chế cạnh tranh đối với phát triển nền kinh tế

Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, là động lực phát triển của các thành phần, chủ thể kinh tế cùng tham gia kinh doanh. Động lực cạnh tranh kích thích các doanh nghiệp cải tiến thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý để ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh định hướng cho việc kinh doanh sản phẩm dịch vụ, điều tiết quan hệ cung cầu của xã hội, thông qua cạnh tranh các nhà sản suất sẽ không ngừng sáng tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới tốt hơn với giá thành hợp lý hơn, nhờ vậy người tiêu dùng được lựa chọn các loại hàng hóa, sản phẩm dịch vụ mà họ mong muốn. Đồng thời, cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên hiệu quả nhất, phân phối nguồn lực và điều hòa thu nhập.

Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế diễn ra khi doanh nghiệp sử dụng bằng mọi cách thức, thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh với mục đích chiếm được ưu thế cạnh tranh, gây thiệt hại hoặc bất lợi cho chủ thể cạnh tranh, thậm chí thủ tiêu cạnh tranh, loại bỏ và tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh. Hậu quả là nó xóa bỏ cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ không còn phải chịu sức ép của cạnh tranh và từ đó có thể tha hồ đưa ra những điều kiện giao kết bất lợi cho khách hàng. Đặc biệt, khi xuất hiện độc quyền, người tiêu dùng không còn sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận hàng hóa, dịch vụ và các điều kiện kèm theo của doanh nghiệp độc quyền.

Tuy nhiên, tác động nguy hiểm của các hành vi hạn chế cạnh tranh đó chính

là ảnh hưởng tới cấu trúc thị trường và sự phát triển của nền kinh tế. Theo quy luật tự nhiên của thị trường, “kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh và hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp có sự tích tụ dần trong quá trình kinh doanh để nâng cao dần vị thế của người chiến thắng trên thương trường” [52, tr.15], thu nhập và các nguồn lực kinh tế thu được sẽ tập trung vào tay các doanh nghiệp giỏi, có khả năng và bản lĩnh trong kinh doanh. Tuy nhiên, sự lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền sẽ tác động đến quy luật cung - cầu và các quy luật cạnh tranh tự nhiên trên thị trường, khiến cho các nguồn lực kinh tế không tập trung vào các doanh nghiệp có khả năng thực sự. Điều này làm sai lệch sự vận động vốn có của thị trường, gây ra sự hỗn loạn và làm thị trường mất đi sự ổn định, nhịp nhàng vốn có. Các hành vi hạn chế cạnh tranh còn gây hao phí nguồn lực kinh tế, ngăn cản, kìm hãm việc đầu tư công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất… nên các nguồn lực kinh tế của xã hội và của chính doanh nghiệp không được sử dụng một cách hiệu quả và hợp lý. Hạn chế mức độ đầu tư làm giảm đi khả năng phát triển thị trường liên quan, từ đó khả năng cạnh tranh và quy mô kinh doanh sẽ bị kìm hãm, gây tổn hại không thể phục hồi cho sự tăng trưởng kinh tế. Khác với hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại tới một hoặc một vài doanh nghiệp cụ thể, thì các hành vi hạn chế cạnh tranh đe dọa tới cả một nhóm doanh nghiệp, một lĩnh vực kinh doanh, và do vậy tác động có nó mang tính hệ thống, có thể gây thiệt hại đến cả nền kinh tế của đất nước. Để loại trừ được những nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh là công cụ cần thiết để Nhà nước điều tiết những hành vi gây nguy hại cho thị trường và đặc biệt cho sự phát triển của nền kinh tế.

1.2.2.2. Yêu cầu bảo vệ cấu trúc thị trường và môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong kinh doanh

Như phân tích ở trên, có thể thấy hậu quả của cạnh tranh tự do sẽ dẫn đến các thủ đoạn, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm kìm hãm, hạn chế sự phát triển của thị trường. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh chân chính mà còn cả kinh tế - xã hội đất nước. Do vậy, cùng với sự phát triển của nền

kinh tế thị trường là nhu cầu: Bảo vệ và điều tiết quy luật cạnh tranh, bảo vệ cấu trúc của thị trường; bảo vệ các chủ thể kinh doanh (chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường); bảo vệ người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Bản thân cơ chế thị trường có những khuyết tật mà tự nó không thể khắc phục được, do đó cần phải có sự can dự của công quyền nhằm định hướng các hoạt động trên thị trường diễn tiến trong một khuôn khổ hợp lý. Để hạn chế hậu quả tiêu cực do hành vi cạnh tranh gây ra, cũng như bảo đảm chủ thể cạnh tranh không lạm dụng quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, ở mức độ nào đó, Nhà nước tác động vào các hành vi cạnh tranh của họ. Sự tác động đó có thể làm cho doanh nghiệp hiểu được khuôn khổ, quy tắc của hành vi kinh doanh, từ đó có những ứng xử trên thị trường cho phù hợp. Luật Cạnh tranh ra đời là để bảo vệ quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, các quy phạm của luật cạnh tranh có mục tiêu tìm cách phát huy cạnh tranh hiệu quả và không bị bóp méo trên thị trường. Do vậy, pháp luật hầu hết các nước đều đưa ra các văn bản luật hoặc các quy định cụ thể nằm trong các ngành luật khác nhau để kiểm soát hiệu quả các hành vi hạn chế cạnh tranh và áp dụng chế tài xử lý đối với các chủ thể vi phạm nhằm duy trì sự ổn định, tính cạnh tranh hiệu quả giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua khung pháp lý về cạnh tranh được thiết lập, Nhà nước cũng có thể can thiệp vào các hành vi cạnh tranh bằng cách áp dụng biện pháp đình chỉ hành vi, phạt tiền, bồi thường thiệt hại đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh. Có thể hiểu, đó là các biện pháp chế tài mà chủ thể vi phạm cạnh tranh phải chịu trước những hành vi cạnh tranh của mình gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới đối thủ cạnh tranh và môi trường cạnh tranh. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh với chế tài đủ mạnh, sẽ là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của quan hệ thị trường. Chế tài hạn chế cạnh tranh ra đời nhằm: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi cản trở, kìm hãm cạnh tranh của các doanh nghiệp đối thủ; bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng); là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng.

Như vậy, chế tài có vai trò vô cùng quan trọng, nó không chỉ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tham gia thị trường và người tiêu dùng, nó còn có chức năng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm các quy định về cạnh tranh, nâng cao đạo đức kinh doanh, ý thức tuân thủ pháp luật, góp phần bảo vệ quyền tự do kinh doanh của chủ thể trên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh và các quan hệ thị trường, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế… Ở Cộng hòa Czech có câu thành ngữ: “Laws without punishment are like bells with no clackers” (Pháp luật mà không đi kèm với hình phạt thì chẳng khác nào cái chuông câm) [25, tr.15]. Hình phạt ở đây chính là các chế tài.

Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 4

1.2.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh

Đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh cũng có những cách thức tác động đặc thù. Các hành vi có thể tác động ở dạng “trước”, đưa ra những tiêu chí về đạo đức, những chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử trong kinh doanh để các chủ thể tham gia thị trường tuân theo, tức là làm cho doanh nghiệp hiểu được khuôn khổ, quy tắc của hành vi kinh doanh, từ đó có những ứng xử trên thị trường phù hợp. Cũng theo cách thức này, một số hành vi hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát thông qua các chế độ nhất định, như phải đăng ký, thông báo… Hoặc trong những trường hợp khác, pháp luật tác động “sau”, tức là sau khi các hành vi này đã xảy ra và thông qua các biện pháp biện pháp cưỡng chế như đình chỉ hành vi, bồi thường thiệt hại, phạt tiền…, thậm chí trong một số trường hợp có thể bị áp dụng các chế tài hình sự. Đây là những biện pháp chế tài mà chủ thể vi phạm các quy định pháp luật về cạnh tranh phải chịu.

Căn cứ vào tính chất của nhóm các quan hệ xã hội được pháp luật cạnh tranh điều chỉnh, chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh gồm: Chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự. Việc áp dụng chế tài phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi ích pháp luật cần bảo vệ, tính chất của hành vi vi phạm pháp luật, thiệt hại và đe dọa gây thiệt hại do các hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra.

1.2.3.1. Chế tài hành chính

Chế tài hành chính là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và

người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục đích ngăn chặn hay phòng ngừa, vì lý do an ninh quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia. Chế tài hành chính được áp dụng không chỉ nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công mà còn bảo vệ các quy tắc, trật tự xã hội. Ngoài tính trừng phạt, chế tài hành chính nhằm ngăn chặn những vi phạm có thể xảy ra nguy hiểm hơn.

Chế tài hành chính luôn luôn chứa trong nó tính trừng trị. Điều đó có nghĩa là, chế tài hành chính phải bao gồm các hình thức chế tài nghiêm khắc. Các hình thức chế tài hành chính ở các nước có thể kể đến như các hình thức như phạt tiền, tước giấy phép, thu hồi hay huỷ bỏ, xử phạt về thuế, đình chỉ hay tạm đình chỉ [34, tr. 39].

Pháp luật cạnh tranh các nước trên thế giới đều sử dụng các biện pháp chế tài hành chính nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, các hình thức xử phạt hành chính đối với vi phạm pháp luật chống hạn chế cạnh tranh bao gồm:

- Phạt tiền là một trong những hình thức xử phạt hành chính chủ yếu đối trong xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh Nhật bản cho phép phạt tới 6% tổng giao dịch thương mại trong lĩnh vực bị ảnh hưởng trong thời hạn 3 năm [6, Điều 7-2]. Ở Liên minh châu Âu, phạt tiền được Ủy ban châu Âu ấn định có thể đạt tới mức 10% tổng doanh thu hàng năm của mọi sản phẩm của doanh nghiệp vi phạm [7, tr.103]. Luật Cạnh tranh thương mại của Thái Lan năm 1999 quy định mức phạt tiền không quá 6 triệu baht đối với thương nhân có hành vi cạnh tranh không tự do và không bình đẳng, gây thiệt hại, cản trở hoặc hạn chế hoạt động của những thương nhân khác, ngăn chặn thương nhân khác hoạt động kinh doanh hoặc buộc thương nhân khác phải kết thúc hoạt động kinh doanh; các trường hợp vi phạm nhiều lần sẽ bị phạt gấp đôi [5, Điều 50, 51].

Phạt tiền cũng có thể khác nhau theo loại hành vi vi phạm (ở Ấn Độ và Bồ Đào Nha), hay theo yếu tố lỗi: vi phạm được thực hiện do lỗi cố ý hay vô ý (Đức và Cộng đồng Châu Âu), hay được thể hiện dưới dạng một số lượng cụ thể và/hoặc theo mức lương tối thiểu hay mức lương tham chiếu (Brazil, Mehico, Peru, Nga) và/hoặc được tính toán liên quan đến lợi nhuận có được do vi phạm (Trung Quốc,

Đức, Hungary và Lithuania). Hơn nữa, ở những nước nhất định, như Đức, vi phạm có thể bị phạt gấp ba lần lợi nhuận có được do vi phạm. Phạt gấp ba lần thiệt hại cũng là biện pháp quan trọng khi xử lý các thỏa thuận về giá ở Mỹ. Ở Peru, trường hợp tái phạm có thể bị phạt gấp đôi [7, tr.103].

- Ngoài phạt tiền, các vi phạm hạn chế cạnh tranh còn bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác như: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất hay bác bỏ (đối với những vụ sáp nhập, mua lại và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh); buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua; cải chính công khai; loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Ở Hungary, Ban Cạnh tranh có thể ra quyết định hay lệnh khẩn cấp buộc chấm dứt hành vi vi phạm hay hủy bỏ trạng thái hiện tại của sự việc, nếu hành động khẩn cấp là cần thiết để bảo vệ các lợi ích kinh tế, pháp lý của cá nhân liên quan để thiết lập, phát triển cạnh tranh kinh tế đang bị đe dọa [7, tr.104].

Ở Mỹ, buộc chia tách là một biện pháp điều chỉnh trong trường hợp sáp nhập hay mua lại bất hợp pháp, thẩm quyền buộc chia tách còn được mở rộng để áp dụng với cả trường hợp lạm dụng vị trí thống lĩnh [7, tr.105].

Cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan tư pháp cũng có thể ra các quyết định vĩnh viễn hay có thời hạn dài để nới lỏng, dỡ bỏ hay để điều chỉnh việc vi phạm bởi hành vi khắc phục hậu quả, công bố ra công chúng hay xin lỗi công khai… được cho là cần thiết. Điều này được thấy ở Pháp và ở Cộng đồng châu Âu. Theo cách thức này, giới kinh doanh và đặc biệt là người tiêu dùng sẽ được biết rằng một doanh nghiệp cụ thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật [7, tr.104].

Áp dụng các biện pháp chế tài hành chính đối với các hạn chế cạnh tranh nói riêng và các vi phạm cạnh tranh nói chung, là biện pháp quan trọng nhằm tác động vào chủ thể vi phạm nhằm răn đe, phòng ngừa và khôi phục lợi ích của đối thủ cạnh

tranh và khách hàng. Pháp luật mỗi nước có quy định về việc áp dụng và mức xử phạt khác nhau tùy thuộc vào chính sách cạnh tranh và nhu cầu điều chỉnh của quốc gia đó.

1.2.3.2. Chế tài hình sự

Chế tài hình sự (hay hình phạt) là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất đặc biệt, là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong luật hình sự do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người đã thực hiện tội phạm, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm [36, Điều 26]. Hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm. Bản chất của chế tài hình sự là sự lên án của Nhà nước đối với người đã có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mục đích của các hình phạt là người phạm tội, phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật.

Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 không quy định về chế tài hình sự, tuy nhiên nếu hành vi hạn chế cạnh tranh cấu thành tội phạm thì sẽ có thể bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam đối với hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định tại Chương XVI - “Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 (tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng - Điều 165). Hình phạt áp dụng đối với tội danh vi phạm về trật tự quản lý kinh tế thường là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

Pháp luật cạnh tranh một số nước được quy định thành một đạo luật riêng, trong đó các biện pháp chế tài được cụ thể hóa cho từng hành vi vi phạm (bao gồm cả chế tài hình sự). Thẩm quyền phạt tù thông thường sẽ được trao cho cơ quan tư pháp. Ở một số nước như Nhật Bản, Na Uy, thẩm quyền phạt tù được giao cho cơ quan tư pháp trên cơ sở tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý cạnh tranh. Thời hạn phạt tù có thể lên đến ba năm hay lâu hơn, phụ thuộc vào bản chất của vi phạm [7, tr.104]. Tại Nhật Bản, pháp luật cạnh tranh quy định hình phạt tối đa đối với cá nhân vi phạm có thể lên đến 10 năm tù và 10 triệu Yên tiền phạt.

Ở Mỹ, vi phạm luật chống độc quyền ở mức hình sự bị giới hạn chỉ với hành vi trái pháp luật được định nghĩa rõ ràng và hành vi của bị cáo là hành vi hạn chế cạnh tranh như đặt giá, thông thầu, phân chia thị trường. Chế tài hình sự áp dụng phạt tiền đối với doanh nghiệp và cá nhân có thể bị phạt đến 10 năm tù nếu vi phạm quy định tại Chống độc quyền Sherman 1890 (sửa đổi năm 2004). Một số nước như Canada, cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm ra quyết định trên cơ sở áp dụng luật cạnh tranh, tòa án có quyền kết án tù tới 5 năm. Luật Cạnh tranh Canada quy định hình phạt cụ thể đối với mỗi vi phạm, và có thể áp dụng đồng thời nhiều chế tài của cùng một loại trách nhiệm pháp lý, ví dụ theo quy định tại Điều 45 Phần V, các vi phạm liên quan đến cạnh tranh quy định về hành vi thỏa thuận cạnh tranh “có thể bị truy tố và kết án tù với thời hạn không quá 5 năm hoặc chịu phạt tiền không quá 10 triệu đôla hoặc cả 2 hình phạt” [10, tr.166].

1.2.3.3. Chế tài dân sự

Pháp luật dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ giao dịch và giải quyết các tranh chấp trên thị trường. Quan hệ kinh doanh, thương mại cũng chỉ là một dạng cụ thể của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Vì vậy, một trong những nguồn quan trọng của pháp luật cạnh tranh là pháp luật dân sự. Những quy định của pháp luật dân sự đã hỗ trợ cho Luật Cạnh tranh trong việc điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh và kiểm soát những hành vi phản cạnh tranh. Hầu hết các quy định trong Luật Cạnh tranh đều chịu ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau của các quy định có tính nguyên tắc trong Bộ luật Dân sự. Những quy định này có thể là nguyên tắc tôn trọng truyền thống đạo đức tốt đẹp, các chế định hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chẳng hạn, các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quy định về hợp đồng vô hiệu. Quy định về các hành vi hạn chế cạnh tranh, thực chất là hạn chế khả năng tự do khế ước của cá nhân. Theo nguyên tắc này, các chủ thể được tự do thỏa thuận, tự do giao kết hợp đồng. Nhưng một số thỏa thuận, giao kết lại bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh. Do vậy, nhằm giải quyết một cách thỏa đáng lợi ích của các bên, pháp luật

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí