Nhóm biện pháp này bao gồm yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, buộc phải thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định, cấm không được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định, buộc doanh nghiệp giải thể, chia tách, hoặc tịch thu một phần doanh nghiệp. Tại Mỹ, Ủy ban Thương mại Liên bang có quyền ban hành lệnh ngừng và chấm dứt hành vi vi phạm. Ủy ban Thương mại Liên bang có thẩm quyền tương đối rộng trong việc đưa ra các phán xét và Tòa án sẽ không can thiệp trừ trường hợp các chế tài được lựa chọn không có sự liên quan hợp lý đối với các hành vi vi phạm đó. Những phán quyết này không áp dụng chế tài hình sự hay dân sự cho hành vi đã thực hiện, và cũng không xác định thiệt hại đã xảy ra, một cách chính xác hơn nó giống như một lệnh cấm, yêu cầu bên vi phạm hủy bỏ hoặc ngăn ngừa tiếp tục thực hiện những hành vi trái pháp luật. Ngoài ra, Mục 4 Đạo luật Sherman và Mục 15 Đạo luật Clayton quy định, Tòa án liên bang có thẩm quyền ngăn chặn và hạn chế vi phạm và yêu cầu của chính phủ thực hiên các thủ tục ngăn chặn và hạn chế vi phạm.
Biện pháp cấu trúc thường được áp dụng là giải thể, chia tách doanh nghiệp hoặc tịch thu tài sản của chủ sở hữu mới. Trong cách nói thông thường, biện pháp cấu trúc được gọi là "sự phá vỡ độc quyền"; về mặt pháp lý đó là giải thể, chia tách và tịch thu (dissolution, divorcement, disvestiture). Tòa án tối cao đã hướng dẫn rằng, những vi phạm Luật Chống độc quyền Sherman và Luật Chống độc quyền Clayton có bản chất là sự kiểm soát liên kết của các doanh nghiệp, đây là chế tài thích hợp và hợp lý.
- Biện pháp phạt và khắc phục bằng tiền
Bên cạnh các biện pháp hành vi và biện pháp cấu trúc, cũng có một loạt các biện pháp phạt tiền mà qua đó vừa có thể ngăn chặn hành vi chống cạnh tranh và giúp bồi thường cho bên bị thiệt hại do hành vi phản cạnh tranh gây ra. Các biện pháp này bao gồm yêu cầu người vi phạm phải trả một khoản tiền nhằm ngăn ngừa việc thực hiện các hành vi trong tương lai và bao gồm phạt tiền, bồi thường thiệt hại, bồi hoàn chi phí pháp lý và chi phí Tòa án.
Theo Đạo luật Sherman (sửa đổi năm 2004), Bộ Tư pháp Mỹ có thể áp dụng hình phạt tiền lên tới 100 triệu USD đối với công ty và 1 triệu USD đối với cá nhân vi phạm quy định tại mục 1 hoặc mục 2 của Đạo luật Sherman. Vi phạm phán quyết của
Ủy ban Thương mại Liên bang có thể phải chịu trách nhiệm dân sự lên tới 10.000 USD mỗi ngày cho việc không tuân thủ, và khoản tiền này được coi là một sự xử phạt riêng.
Theo Đạo luật Sherman cũng như Đạo luật Clayton, bất cứ người nào bị thiệt hại trong kinh doanh hoặc tài sản vì bất cứ lý do bị cấm theo luật chống độc quyền… sẽ được bồi thường gấp 3 tổn thất mà người đó phải chịu, cộng với chi phí khởi kiện, bao gồm cả phí luật sư. Bên cạnh đó, theo quy tắc thông thường ở châu Âu thì bên thua kiện phải chi trả cho các chi phí tố tụng, bao gồm phí luật sư, nhưng ở Mỹ, thì mỗi bên phải chịu trả phí luật sư của mình. Điều này nhằm mục đích khuyến khích người bị thiệt hại tiến hành các vụ kiện.
- Hình sự hóa và phạt tù
Tại EU, Hiệp ước Rome không quy định phạm tù đối với các vi phạm luật cạnh tranh và Quy chế 1/2003 đã thể hiện rõ ràng rằng phạt tiền là xử phạt hành chính, không mang tính chất hình sự. Tuy nhiên, tại Mỹ, Đạo luật Sherman quy định hành vi độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế là tội phạm hình sự, do đó ngoài việc doanh nghiệp vi phạm phải chịu phạt tiền, cá nhân (những người quản lý điều hành doanh nghiệp vi phạm) cũng có thể bị phạt tù với thời hạn lên đến 10 năm.
Cả EU và Mỹ đều có 3 mục tiêu quan trọng để áp dụng các chế tài hạn chế cạnh tranh đó là: Chấm dứt hành vi vi phạm; ngăn cản sự tái vi phạm và tái thiết lập cơ hội cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, hệ thống các chế tài hành vi và cấu trúc đã được xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, liên quan tới chế tài tiền tệ, có một số khác biệt rõ rệt giữa hai hệ thống. Khác biệt thứ nhất là liên quan tới phạt tiền. Trong khi EU phạt tiền dựa trên phần trăm doanh thu của người vi phạm trong năm tài khóa, thì tại Mỹ lại quy định số tiền phạt nhất định theo khung xử phạt đã quy định. Sự khác biệt này dẫn tới khả năng số tiền phạt thực tế ở EU cao hơn so với Mỹ. Vì vậy, dường sự tác động răn đe, ngăn ngừa trong xử phạt ở EU là cao hơn so với Mỹ. Tuy nhiên, ở góc độ khác, thì hệ thống chế tài của Mỹ sử dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao sức răn đe, ngăn ngừa và cũng
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Điều Chỉnh Các Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh
- Sự Cần Thiết Áp Dụng Chế Tài Đối Với Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh
- Kinh Nghiệm Pháp Luật Các Nước Về Chế Tài Xử Lý Hạn Chế Cạnh Tranh Pháp Luật Chống Hạn Chế Cạnh Tranh Của Các Nước Đều Có Mục Đích Bảo Vệ Tự
- Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 7
- Thẩm Quyền, Trình Tự Và Thủ Tục Xử Lý Các Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh Ở Việt Nam
- Đánh Giá Thực Trạng Pháp Luật Và Áp Dụng Pháp Luật Về Chế Tài Xử Lý Hạn Chế Cạnh Tranh Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
khuyến khích việc thực thi các cơ chế dân sự để chống độc quyền như: bồi thường gấp 3 và chi trả phí luật sư cho bên nguyên đơn thắng kiện. Hơn nữa, pháp luật Mỹ cũng sử dụng biện pháp nghiêm khắc hơn với sức răn đe cao đó là hình sự hóa và phạt tù.
1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á
* Ở Nhật Bản
Luật Chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng đã quy định đầy đủ các biện pháp chế tài để chống lại các hành vi hạn chế cạnh tranh như: Phạt hành chính tương đối nghiêm khắc cũng như phạt tiền hình sự đối với các công ty, áp dụng phạt tù và trách nhiệm hình sự khác đối với cá nhân, cùng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cơ chế chính cho việc áp đặt lệnh chế tài theo Luật Chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng năm 1991 là hệ thống phạt tiền hành chính. Doanh nghiệp bị phát hiện có các hành vi hạn chế kinh doanh hoặc áp đặt giá sẽ là đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền hành chính. Phạt tiền hành chính không áp dụng đối với cá nhân. Mức phạt được tính bằng mức tỷ lệ phần trăm (1%
- 6%) doanh số bán hàng của công ty tham gia vào hạn chế cạnh tranh, với tỷ lệ khác nhau tùy thuộc vào thành phần và vào việc công ty được coi là một doanh nghiệp hoặc nhỏ và vừa [59].
Để đẩy mạnh khả năng phòng chống đối với những vi phạm pháp luật cạnh tranh, Nhật đã sửa đổi luật cạnh tranh và việc sửa đổi đã đem lại nhiều hiệu quả. Trong các vấn đề quan tâm cần được sửa đổi bao gồm tăng thêm tỷ lệ phạt đối với vi phạm luật chống độc quyền, từ 6% lên 10% doanh thu liên quan đối với công ty lớn và áp dụng tỷ lệ hơn 50% đối với những công ty tái phạm. Sửa đổi Luật Chống độc quyền cho phép Ủy ban Thương mại lành mạnh (Japan Fair Trade Commission
- JFTC) được quyền đưa ra sự buộc tội hình sự đối với các doanh nghiệp vi phạm. Luật Chống độc quyền còn căn cứ vào từng đặc điểm kinh doanh mà áp dụng các mức phạt khác nhau. Và đối với những doanh nghiệp chấm dứt vi phạm ngay từ những bước đầu tiên có thể được xem xét giảm 20% tổng tiền phạt, còn đối với doanh nghiệp tái phạm có thể chịu mức phạt tăng lên tới 50% tổng tiền phạt. Đây
được xem như một bước tiến có tác dụng răn đe lớn tới các doanh nghiệp có ý định tái phạm. Cùng với phạt tiền hành chính, Ủy ban Thương mại lành mạnh có thể yêu cầu doanh nghiệp liên quan đệ trình các báo cáo hay chấm dứt các hành động vi phạm, hoặc tiến hành bất kỳ biện pháp nào khác cần thiết để hủy bỏ các hành động vi phạm [6, Điều 7].
Bên cạnh chế tài hành chính, Nhật Bản cũng là một trong ít nước áp dụng chế tài hình sự chống lại hành vi phản cạnh tranh. Cá nhân có thể bị truy tố khi vi phạm luật chống độc quyền, và có thể bị áp dụng phạt tù lên tới 3 năm và phạt tiền tới 5 triệu yên. Luật Chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng cũng quy định phạt tiền hình sự đối với các công ty, hiệp hội kinh doanh khi các đại lý, nhân viên hay đại diện của họ có hành vi phạm pháp khi hoạt động nhân danh công ty hay hiệp hội. Mức phạt tối đa đối với công ty có thể lên tới 1 tỷ Yên.
Đạo luật chống độc quyền cho phép các bên kiện dân sự đối với các thiệt hại thực tế nhằm chống lại các công ty vi phạm pháp luật chống độc quyền đã được Ủy ban Thương mại lành mạnh tuyên bố. Ngoài ra, bất cứ cá nhân bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật chống độc quyền cũng có thể yêu cầu bồi thường [6, Điều 25]. Tuy nhiên, có một loạt các rào cản pháp lý đối với kiện yêu cầu đòi bồi thường do vi phạm Luật Chống độc quyền, như: Án phí cao, khả năng phát hiện ra hành vi rất hạn chế và khó chứng minh mối quan hệ nhân quả nữa hành vi vi phạm và thiệt hại. Điều này đã làm hạn chế khả năng thành công trong các vụ kiện tương tự, ngay cả một số trường hợp thành công, thì số tiền được bồi thường cũng rất thấp. Và theo đó, rủi ro trong tố tụng dân sự về yêu cầu bồi thường không có nhiều tác động đến việc giảm các vi phạm về hạn chế cạnh tranh. Luật Chống độc quyền của Nhật Bản còn ban hành chính sách khoan dung. Điều này đã góp phần xây dựng một hệ thống minh bạch, khách quan. Mặt khác, sẽ khuyến khích các bên vi phạm các vụ cartel và thông đồng đấu giá ra đầu thú, giúp cho Ủy ban Thương mại lành mạnh dễ dàng ngăn chặn các tác hại của các vụ cartel.
* Ở Trung Quốc
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh Trung Quốc có điểm tương đồng
với cách quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam là dành riêng một chương để quy định về trách nhiệm pháp lý. Các hành vi vi phạm về thông thầu, tùy trường hợp, cơ quan có thẩm quyền kiểm soát và điều tra có thể phạt tiền từ 10.000 đến 200.000 Nhân dân tệ. Với đặc thù tồn tại các doanh nghiệp nhà nước, Điều 23 Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc đã quy định rằng:
Trường hợp doanh nghiệp công ích hoặc các người sản xuất kinh doanh khác có địa vị độc quyền theo luật buộc những người khác phải mua hàng hóa của những người sản xuất kinh doanh do mình chỉ định nhằm để ngăn ngừa các người sản xuất kinh doanh khác cạnh tranh lành mạnh, cơ quan kiểm soát và điều tra cấp tỉnh sẽ buộc người sản xuất kinh doanh nói trên phải chấm dứt hành vi bất hợp pháp và có thể phạt tiền, tùy trường hợp, từ 50.000 đến 200.000 Nhân dân tệ [4].
Đặc thù của pháp luật cạnh tranh Trung Quốc là quy định cả việc xử lý đối với độc quyền hành chính, theo đó, chính quyền địa phương và các tổ chức trực thuộc có hành vi buộc những người khác phải mua hàng hóa của những người sản xuất kinh doanh do chính quyền và các tổ chức này chỉ định, hạn chế các hoạt động kinh doanh chính đáng của người sản xuất kinh doanh khác, hoặc hạn chế luồng lưu thông hàng hóa bình thường giữa các khu vực, các cơ quan có thẩm quyền cao hơn có quyền ra lệnh chấm dứt hành vi vi phạm, tiến hành kỷ luật đối với những người có trách nhiệm trực tiếp, tịch thu phần thu nhập bất hợp pháp đối với doanh nghiệp được lợi từ độc quyền hành chính hoặc phạt tiền nhiều hơn từ hai đến ba lần so với phần thu nhập bất hợp pháp [4, Điều 30]. Ngoài ra, tùy mức độ vi phạm cụ thể, doanh nghiệp có thể bị áp dụng các chế tài hành chính (buộc chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục những thiệt hại xảy ra…) hoặc chế tài hình sự (phạt tù đối với người quản lý, lãnh đạo công ty).
Qua kinh nghiệm pháp luật các nước về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh có thể thấy rằng, mỗi quốc gia tùy thuộc vào chính sách cạnh tranh, nhu cầu xử lý, truyền thống pháp luật mà có sự khác nhau trong quy định về chế tài xử lý, bao gồm cả hình thức, mức độ, thẩm quyền, thủ tục xử lý, cách thức quy định chế tài. Trong
đó một trong những biện pháp chủ yếu đó là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, thậm chí còn quy định cả chế tài hình sự nhằm tăng tính răn đe. Cùng với quy định các chế tài nghiêm khác, chính sách khoan hồng cũng được pháp luật các nước chú trọng điều chỉnh nhằm nâng cao việc phát hiện các vụ việc vi phạm và hiệu quả điều tra, xử lý các vi phạm về hạn chế cạnh tranh. Đây là những kinh nghiệm quý báu để nghiên cứu hoàn thiện quy định về chế tài hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam, đặc biệt trong việc áp dụng xử lý hình sự và cơ chế khoan hồng.
Tiểu kết Chương 1
Cạnh tranh là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cạnh tranh tự do sẽ dẫn đến các thủ đoạn, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm kìm hãm, bóp méo, hạn chế sự phát triển của thị trường. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu dùng, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh chân chính mà còn cả kinh tế - xã hội đất nước. Chính vì vậy, hiện nay pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh về cạnh tranh, đặc biệt là đối với chống độc quyền, tập trung kinh tế. Các nước can thiệp vào các hành vi hạn chế cạnh tranh thông qua pháp luật về cạnh tranh, chống độc quyền. Quy định về chế tài là biện pháp hiệu quả, cần thiết nhằm chấm dứt, trừng trị, ngăn ngừa và giảm các vi phạm về hạn chế cạnh tranh. Tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội, chính sách cạnh tranh và nhu cầu điều chỉnh của mỗi quốc gia mà các biện pháp chế tài, tính nghiêm khắc của chế tài có sự khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các nước đều áp dụng các biện pháp chế tài hành chính (như phạt tiền, chấm dứt hành vi vi phạm, cấu trúc lại doanh nghiệp vi phạm, công bố vi phạm…), chế tài dân sự (bồi thường thiệt hại) và chế tài hình sự (như phạt tiền hình sự, phạt tù), trong đó phạt tiền được xem là biện pháp chế tài hiệu quả và được quy định đối với hầu hết các hành vi vi phạm về hạn chế cạnh tranh.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát về các biện pháp chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam Tại Việt Nam, chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định
chủ yếu trong Luật Cạnh tranh năm 2004, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh (có hiệu lực đến ngày 14/9/2014) và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh. Luật Cạnh tranh năm 2004 cơ cấu gồm có 6 chương, 123 Điều, trong đó Chương II quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh (điều chỉnh về các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế của doanh nghiệp) và Chương V quy định về điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh (điều chỉnh về trình tự, thủ tục, thẩm quyền của tố tụng cạnh tranh và các biện pháp xử lý đối với vi phạm cạnh tranh). Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh được đánh giá là quy định đầy đủ các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, với những quy định khá chi tiết, cụ thể về các biện pháp xử lý hành chính và có dẫn chiếu đến việc áp dụng chế tài dân sự (bồi thường thiệt hại), chế tài hình sự (trong trường hợp có dấu hiệu tội phạm). Tuy nhiên, quá trình thực thi bộc lộ nhiều bất cập, do vậy ngày 21/7/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2014 và thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.
Ngoài ra, chế tài cạnh tranh còn được quy định trong các văn bản luật khác như: Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan (Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Sở hữu trí tuệ, chứng khoán, đầu tư,
bưu chính viễn thông, điện lực, xăng dầu, bảo hiểm, ngân hàng…). Những quy định đó là nguồn quan trọng về chế tài để xử lý các trường hợp vi phạm cụ thể, trong từng lĩnh vực cụ thể mà Luật Cạnh tranh không điều chỉnh trực tiếp. Tuy nhiên, cạnh tranh xuất hiện trong mọi lĩnh vực của kinh tế thị trường, vì thế các quy định liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Việc áp dụng các chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh phải đặt trong mối quan hệ giữa những quy định của Luật Cạnh tranh với các văn bản pháp luật có liên quan. Trong trường hợp có xung đột giữa Luật Cạnh tranh và các lĩnh vực pháp luật khác, thì ưu tiên áp dụng Luật Cạnh tranh. Như vậy, Luật Cạnh tranh là nguồn mang tính nguyên tắc chung, điều chỉnh quan hệ cạnh tranh cũng như việc áp dụng chế tài cho các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Theo quy định của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh Việt Nam, các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm hạn chế cạnh tranh bao gồm:
2.1.1.1. Chế tài hành chính
Lý luận cạnh tranh đã cho thấy, một vụ việc cạnh tranh cho dù liên quan đến chủ thể nào thì cũng đều nằm trong phạm vi quản lý kinh tế của Nhà nước, thuộc chức năng của Nhà nước. Do đó, xử lý vi phạm về cạnh tranh là một hoạt động mang bản chất của quá trình thực thi chức năng điều tiết của Nhà nước đối với thị trường cạnh tranh. Các biện pháp xử lý vi phạm chủ yếu mang tính hành chính, mệnh lệnh, thủ tục xử lý cũng có tính đặc thù. Cơ quan nhà nước tiến hành thủ tục điều tra, xử lý đối với hành vi hạn chế cạnh tranh là cơ quan thuộc bộ máy hành pháp (cơ quan quản lý cạnh tranh); thủ tục tiến hành lại dựa trên những nguyên tắc tố tụng tư pháp (nghĩa vụ chứng minh, quyền khiếu kiện…). Chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định cơ bản tại Luật Cạnh tranh và Nghị định số 120/2005/NĐ-CP (trước ngày 15/9/2014) và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 15/9/2014), ngoài ra Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định liên quan. Đó là các quy định về hình thức xử phạt, mức tiền cụ thể đối với các vi phạm thuộc các lĩnh vực khác nhau, các biện pháp khắc phục hậu quả cũng như thủ tục áp dụng các chế tài cho đối tượng vi phạm.