Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 2

với các hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, các biện pháp chế tài, trình tự áp dụng chế tài, thẩm quyền xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh..., được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với thực tế áp dụng chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các biện pháp chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh và các vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật Việt Nam từ thời điểm Luật Canh tranh năm 2004 có hiệu lực thi hành.

Bên cạnh đó, việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới về vấn đề này chỉ nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu và rút ra bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp luật... để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài.

6. Những đóng góp mới của đề tài

Luận văn nếu được thực hiện và bảo vệ thành công sẽ đưa lại các đóng góp mới như sau:

- Góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát và xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

- Góp phần đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu quả áp dụng các chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.

- Góp phần hoàn thiện pháp luật về các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó, xây dựng và hoàn thiện môi trường cạnh tranh bình đẳng, công bằng ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 2

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh và chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.

Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH


1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh

1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh

1.1.1.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh

Cạnh tranh là một quy luật vận động cơ bản của kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhờ có cạnh tranh - với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và bản tính tham lam của con người - mà nền kinh tế thị trường đã có những bước phát triển nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Theo Black’Law Dictionary, cạnh tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh - được hiểu là sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba. Về bản chất, cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể được mô tả thông qua những dấu hiệu riêng vốn có của nó: (i) Cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể kinh doanh có quyền tự do hành xử trên thị trường; (ii) Cạnh tranh thể hiện sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp, nói cách khác, cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng; (iii) Mục đích của cạnh tranh là tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ [52, tr. 11].

Trong đó, hành vi cạnh tranh thường được phân loại thành: hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường chỉ là hành vi đơn độc của doanh nghiệp, ít có được sự đồng thuận từ các đối tác và chỉ áp dụng tới một vài đối thủ, khách hàng và trong một phạm vi nhất định. Ngược lại, các hành vi hạn chế cạnh tranh, được coi là hành vi có mức độ nguy hiểm và tính phức tạp cao, hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường nhằm mục đích hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh, biến

dạng thị trường, gây nguy hại không chỉ cho các đối tượng cạnh tranh, người tiêu dùng mà toàn thị trường cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Luật Cạnh tranh Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hạn chế cạnh tranh theo hướng liệt kê các nhóm hành vi cụ thể, theo đó “hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường” [37, Điều 3, Khoản 3]. Mặc dù, không đưa ra một khái niệm chung về hạn chế cạnh tranh, nhưng thông qua các hành vi cụ thể được các nhà làm luật điều chỉnh trong chế định hạn chế cạnh tranh, thì có thể thấy hành vi này có đặc điểm chính là:

- Chủ thể thực hiện hành vi có thể là một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp, các doanh nghiệp này hoặc là đã có sức mạnh thị trường, hoặc hướng đến việc hình thành nên sức mạnh thị trường bằng cách thỏa thuận hoặc tập trung kinh tế.

- Hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường, áp đặt sự thống trị duy nhất của doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp lên thị trường. Ví dụ như thỏa thuận ấn định giá mua bán hướng tới hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc thị trường cung cấp nguyên vật liệu… buộc người mua không có sự lựa chọn từ đó áp đặt sự thống trị của doanh nghiệp trong những phạm vi nhất định, gây cản trở và làm hạn chế cạnh tranh.

- Các hành vi được thực hiện nhằm mục tiêu làm biến dạng cạnh tranh và đi tới triệt tiêu cạnh tranh. Sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ, ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh hiện có hoặc sẽ có, bóc lột khách hàng.

1.1.1.2. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh

Tùy vào đặc điểm nền kinh tế của mỗi quốc gia mà pháp luật cạnh tranh có những cách điều chỉnh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, pháp luật các nước xác định hành vi hạn chế cạnh tranh căn cứ vào yếu tố thị trường liên quan và thị phần, thị phần kết hợp.

* Xác định thị trường liên quan

Dưới góc độ kinh tế học, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Cục Thương mại công bằng của Vương quốc Anh đã nhận định:

Thị trường là một giai đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ thị phần chỉ được tính toán sau khi những ranh giới của thị trường đã được xác định. Do đó, nếu thị trường được xác định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu trúc thị trường đều không hoàn thiện [53, tr. 238].

Việc xác định được thị trường liên quan là để có thể đánh giá được sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp, là để xem mức độ những sản phẩm và dịch vụ thay thế lẫn nhau tạo sức ép cạnh tranh lên các nhà cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tương ứng. Thị trường liên quan là cơ sở quan trọng để các cơ quan thực thi luật, kết luận một hành vi cụ thể là có vi phạm Luật Cạnh tranh hay không. Nói cách khác, xác định thị trường liên quan là công đoạn đầu tiên trong chuỗi tác nghiệp thực thi Luật Cạnh tranh liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh.

Thị trường liên quan được cấu thành bởi hai loại giới hạn cơ bản là giới hạn về sản phẩm (loại hàng hóa, dịch vụ) và giới hạn về phạm vi, không gian địa lý, khu vực địa lý. Đó là: thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.

Thứ nhất, thị trường sản phẩm liên quan được xác định trong một phạm vi mà ở đó hàng hoá, dịch vụ có những đặc tính, hình dạng, mục đích sử dụng và giá cả tương tự, có khả năng thay thế cho nhau một cách hợp lý. Tính chất tương tự giữa những hàng hoá, dịch vụ này phải được xét trong tổng thể các yếu tố nói trên, không ngoại trừ yếu tố nào. Căn cứ để xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của hàng hóa, dịch vụ cũng như “thuộc tính có thể thay thế cho nhau” được quy định tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP (Điều 5), đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: tính chất vật lý, tính chất hóa học; tính năng kỹ thuật; tác dụng phụ của sản phẩm; khả năng hấp thụ. Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục đích sử dụng thông thường

nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Giá cả của hàng hóa, dịch vụ là giá ghi trong hóa đơn bán lẻ. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, thị trường sản phẩm liên quan còn có thể được xác định là thị trường của một loại sản phẩm đặc thù hoặc một nhóm các sản phẩm đặc thù căn cứ vào cấu trúc thị trường và tập quán của người tiêu dùng. Trong trường hợp này, việc xác định thị trường sản phẩm liên quan có thể xem xét thêm thị trường của các sản phẩm bổ trợ cho sản phẩm liên quan [11].

Thứ hai, thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể có thể là một thành phố, một tỉnh, một miền, một quốc gia, một khu vực kinh tế, thậm chí là toàn cầu mà ở đó hàng hoá, dịch vụ có khả năng thay thế được cho nhau một cách hợp lý với các điều kiện cạnh tranh tương tự, đặc biệt, khu vực địa lý này phải có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận khác về hàng rào kiểm soát thương mại, phương tiện phân phối, chi phí vận chuyển và ngôn ngữ thương mại. Theo khoản 3 Điều 7 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, khu vực địa lý được coi là có điều kiện cạnh tranh tương tự và khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận nếu thỏa mãn một trong các tiêu chí sau: (i) Chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển làm giá bán lẻ hàng hóa tăng không quá 10%; hoặc (ii) có sự hiện diện của một trong các rào cản gia nhập thị trường như: rào cản từ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý theo quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp; rào cản về tài chính bao gồm chi phí đầu tư vào sản xuất, phân phối, xúc tiến thương mại hoặc khả năng tiếp cận với các nguồn cung cấp tài chính; quyết định hành chính của cơ quan quản lý nhà nước; quy định về điều kiện kinh doanh, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, các chuẩn mực nghề nghiệp; thuế nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu; tập quán của người tiêu dùng… [11].

* Xác định thị phần, thị phần kết hợp Theo Luật Cạnh tranh năm 2004:

Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số

mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm [37, Điều 3, khoản 5].

Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, thị phần được đề cập đến khi xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là vị trí thống lĩnh thị trường và tập trung kinh tế. Bản thân thị phần chưa đủ để khẳng định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Tuy nhiên, thị phần cũng là điều kiện cần thiết để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh.

Trong quá trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh, bên cạnh xác định thị phần, thì xác định thị phần kết hợp cũng là vấn đề quan trọng. Nếu như thị phần chỉ tỷ lệ doanh thu của một doanh nghiệp so với tổng doanh thu của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan, thì thị phần kết hợp là tỷ lệ doanh thu của hai hay nhiều doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã định nghĩa rằng: “Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế” [37]. Trong Luật Cạnh tranh, thị phần kết hợp thường được đề cập đến khi xác định các doanh nghiệp cùng nhau thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế. Thị phần kết hợp thể hiện năng lực cạnh tranh của một nhóm doanh nghiệp. Vì vậy, thông qua tỷ lệ thị phần kết hợp người ta xác định một nhóm doanh nghiệp có thuộc trường hợp bị kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh hay không. Theo Luật Cạnh tranh 2004, trường hợp một số thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bị cấm khi thị phần liên kết của họ vượt quá 30%, hoặc trường hợp tập trung kinh tế, nếu thị phần kết hợp từ 30% - 50% thì các doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan quản lý cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp trên 50% thì hoạt động tập trung kinh tế đó sẽ bị cấm… Bởi khi sở hữu tỷ lệ thị phần đó, các doanh nghiệp có thể gây hạn chế cạnh tranh một cách sâu sắc mà không phải do năng lực tự sản xuất, kinh doanh của họ.

1.1.1.3. Phân loại các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh

Các hành vi hạn chế cạnh tranh tồn tại phổ biến dưới các dạng: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung kinh tế.

* Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi cấu kết giữa hai hay nhiều doanh nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản việc tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc của các doanh nghiệp. Nội dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chính là sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể dưới bất kì hình thức nào về cách thức, biện pháp nhằm hạn chế, thậm chí khống chế cạnh tranh trên thị trường liên quan. Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8 Luật Cạnh tranh. Mặc dù thực tế các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh rất đa dạng, tuy nhiên về bản chất pháp lý thì các hành vi này có đặc điểm chung đó là:

- Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau. Để xác định dấu hiệu này, phải chứng minh được những điểm sau đây: các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan; các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty. Ngoài ra, theo pháp luật Việt Nam, hiệp hội ngành nghề cũng có thể là chủ thể bị áp dụng, vì nơi đây là diễn đàn tập trung các doanh nghiệp thường là một hoặc một số hàng hóa trên thị trường liên quan.

- Hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp có thể công khai hoặc không công khai.

- Nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng. Để xác định được sự tồn tại của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần phải có bằng chứng về sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp; và nội dung của thỏa thuận là cùng nhau thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh.

- Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, dấu hiệu chung cho cả ba loại

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí