Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 7

Chế tài hành chính đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam gồm: Hình thức xử phạt chính, hình thức phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả. Những hình thức phạt chính được áp dụng một cách độc lập, nghĩa là đối với mỗi vi phạm có thể áp dụng một hình thức phạt chính mà không nhất thiết phải áp dụng các hình thức phạt bổ sung kèm theo. Những hình thức phạt bổ sung không được áp dụng một cách độc lập, mà bao giờ cũng được áp dụng kèm theo một hình thức phạt chính nào đó. Việc xử lý hành chính các vi phạm về hạn chế cạnh tranh theo nguyên tắc: Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật; Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật; Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định; Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần; Một doanh nghiệp thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử lý đối với từng hành vi vi phạm [41]. Khi xác định mức độ xử lý đối với từng hành vi vi phạm quy định về hạn chế cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào một hoặc một số yếu tố quy định tại khoản 4 Điều 4 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP như: Mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm gây ra, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm, thời gian thực hiện hành vi vi phạm, phạm vi thực hiện hành vi vi phạm, khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm, các yếu tố cần thiết khác trong từng vụ việc cụ thể [16].

Ngoài các yếu tố trên, cơ quan có thẩm quyền xử lý có thể xem xét các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng theo quy định tại Mục 6 Chương III Nghị định số 116/2005/NĐ-CP và Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, cụ thể:

- Tình tiết giảm nhẹ bao gồm: Tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện; đối tượng vi phạm đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt

hại; đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin liên quan đến hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó chưa biết; tác động tích cực của hành vi vi phạm đối với việc phát triển nền kinh tế.

- Tình tiết tăng nặng bao gồm: Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực; thực hiện hành vi vi phạm sau khi nhận được quyết định không chấp thuận được hưởng miễn trừ hoặc quyết định bãi bỏ quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan có thẩm quyền; tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó; sau khi thực hiện hành vi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm.

Quy định về tình tiết giảm nhẹ đối với vi phạm liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã đề cập đến vấn đề xét giảm nhẹ mức độ xử lý đối với trường hợp “tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện” và trường hợp “đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin liên quan đến hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó chưa biết”. Mặc dù quy định này có mang hơi hướng, tinh thần của chính sách khoan hồng, tuy nhiên nó chưa được cụ thể hóa bằng một chương trình khoan hồng để chỉ ra lợi ích rõ ràng của bên tham gia thỏa thuận khi tự nguyện khai báo thông tin về hành vi vi phạm và cung cấp chứng cứ cho cơ quan cạnh tranh giống như các quy định về Chương trình khoan hồng mà các nước phát triển hiện đang áp dụng một cách hiệu quả.

- Hình thức xử phạt chính

Luật Cạnh tranh quy định hai hình thức xử phạt chính, đó là: Cảnh cáo và phạt tiền. Đối với các vi phạm hạn chế cạnh tranh thì không áp dụng hình thức phạt cảnh cáo, điều này xuất phát từ tính chất nguy hiểm của hành vi hạn chế cạnh tranh so với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy, việc áp dụng chế tài cảnh cáo đối với hành vi này không đảm bảo được tính răn đe, trừng trị của chế tài, cần thiết áp dụng các biện pháp xử phạt nghiêm khắc và nặng hơn đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh. Phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh mà bên vi phạm thiếu thái độ hợp tác như: không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin, tài liệu mà mình biết theo yêu cầu của cơ quan có thẩm

quyền; cung cấp thông tin, tài liệu không đúng thời hạn theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; cố tình cung cấp thông tin, tài liệu gian dối hoặc làm sai lệch thông tin, tài liệu; cưỡng ép người khác cung cấp thông tin, tài liệu gian dối; che dấu, tiêu huỷ các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc cạnh tranh.

Phạt tiền là hình thức phạt chủ yếu đối với các hành vi vi phạm hạn chế cạnh tranh, biện pháp phạt tiền được áp dụng trên tỉ lệ phần trăm trên doanh thu của doanh nghiệp vi phạm. Cụ thể, Luật Cạnh tranh quy định:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Đối với hành vi vi phạm quy định về thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm [37, Điều 118, khoản 1].

Từ trước tới nay, các hành vi vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực đều được xử lý theo các khung phạt tiền đã được định trước. Cách tiếp cận này có ưu điểm là dễ dàng áp dụng trên thực tế, tuy nhiên, nhược điểm lớn là khung phạt tiền thường nhanh chóng lạc hậu theo thời gian nên trong nhiều trường hợp mức phạt tiền không còn tác dụng răn đe đối tượng có hành vi vi phạm. Do vậy, quy định mức phạt tiền trên cơ sở tỉ lệ doanh thu đảm bảo rằng biện pháp xử lý của Nhà nước sẽ không bị lạc lậu theo thời gian, công bằng trong việc áp dụng. Quan trọng hơn, việc Quốc hội quy định mức trần phạt tiền là 10% sẽ đảm bảo tính răn đe cao đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật nói chung. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã quy định cụ thể về chế tài xử phạt hành chính đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh. Theo Nghị định 120/2005/NĐ-CP, mỗi hành vi vi phạm về hạn chế cạnh tranh bị phạt tiền đến 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp, và phạt tiền từ 5-10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm nếu các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% hoặc hàng hóa, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân

Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 7

bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe; hoặc là doanh nghiệp có thị phần trên thị trường liên quan lớn nhất trong nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, là doanh nghiệp giữ vai trò tổ chức, lôi kéo các doanh nghiệp khác trong nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh cùng thực hiện vi phạm; hoặc doanh nghiệp nhận sáp nhập có hành vi chèn ép, buộc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp làm tăng giá hàng hóa, dịch vụ một cách đáng kể trên thị trường liên quan…[12]. Tuy nhiên, hiện nay theo Nghị định mới ban hành (Nghị định 71/2014/NĐ-CP), thì không còn quy định khung phạt tới 5% mà áp dụng chung mức phạt tiền đến 10% đối với các hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. Trong đó, tỷ lệ tiền phạt được xác định trên doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào của hàng hóa, dịch vụ liên quan đến hành vi vi phạm trong thời gian thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp vi phạm, hoặc được xác định theo tỷ lệ phần trăm tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm nếu không xác định được doanh thu bán ra hoặc doanh số mua vào của hàng hóa dịch vụ liên quan.

- Hình thức xử phạt bổ sung

Ngoài các hình thức phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền, Luật Cạnh tranh còn quy định các hình thức phạt bổ sung sau đây:

+ Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Biện pháp này thường áp dụng với các hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế, như đối với hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm, liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm, thì doanh nghiệp hợp nhất, doanh nghiệp liên doanh có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp cho doanh nghiệp hợp nhất, doanh nghiệp liên doanh [16, Điều 24, 26].

+ Tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Theo quy định của Nghị định 120/2005/NĐ-CP, thì hình thức xử phạt này được áp dụng với tất cả các hành vi vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các

hành vi vi phạm quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền. Tuy nhiên, hình thức xử phạt này còn mang tính hình thức và thiếu sự gắn bó với thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và thực tiễn cạnh tranh trên thị trường. Đối với những vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hình thức thỏa thuận có thể bằng miệng, bằng văn bản dưới nhiều hình thức khác nhau như điện thoại, email, bản cam kết, thỏa thuận… Do vậy, Nghị định 71/2014/NĐ-CP chỉ áp dụng biện pháp tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm nhằm đảm bảo sự phù hợp và tính khả thi của chế tài.

- Các biện pháp khắc phục hậu quả

Doanh nghiệp có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả bên cạnh hình thức xử phạt chính và phạt bổ sung, bao gồm: cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua; cải chính công khai; loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm, như: buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp đã mua nhưng không sử dụng, buộc loại bỏ những biện pháp ngăn cản, kìm hãm doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh, buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở (đối với hành vi hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng); buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ mà doanh nghiệp đã cản trở, buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách hàng, buộc khôi phục lại các điều khoản hợp đồng đã thay đổi mà không có lý do chính đáng, buộc khôi phục lại hợp đồng đã huỷ bỏ mà không có lý do chính đáng (đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền)…

2.1.1.2. Chế tài dân sự

Như đã phân tích ở trên, nguồn chung điều chỉnh các quan hệ giao dịch và giải quyết các tranh chấp trên thị trường là pháp luật dân sự. Các hành vi hạn chế cạnh tranh xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của các chủ thể cạnh tranh. Với

tư cách là một trong những nguồn của pháp luật về hạn chế cạnh tranh, chế định bồi thường thiệt hại được quy định trong Bộ luật Dân sự đã góp phần điều chỉnh các hành vi vi phạm về cạnh tranh, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể bị xâm hại.

Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh không quy định chi tiết về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với những thiệt hại do hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra, mà viện dẫn pháp luật dân sự. Điều 117 Luật Cạnh tranh đã quy định rằng “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” [37]. Do đó, khi xảy ra thiệt hại từ hành vi hạn chế cạnh tranh, chủ thể bị hại có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua quyền đòi bồi thường thiệt hại được quy định cụ thể tại Bộ luật Dân sự. Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật chống hạn chế cạnh tranh gây ra, kể cả hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự.

Biện pháp dân sự cho phép bên bị vi phạm có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi hạn chế cạnh tranh vi phạm mà gây thiệt hại cho chủ thể khác phải bồi thường. Nguyên tắc xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam yêu cầu các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật cạnh tranh, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân hợp pháp khác, phải bồi thường thiệt hại đó theo quy định của pháp luật dân sự, có nghĩa rằng về nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Tuy nhiên, các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường, bằng tiền mặt, hiện vật, hoặc bằng việc thực hiện một nhiệm vụ, và chế độ bồi thường. Trong trường hợp có nhiều người cùng gây ra sự mất mát, tức là nhóm các doanh nghiệp có thoả thuận hạn chế cạnh tranh hoặc cùng ở một vị trí thống lĩnh, họ cùng phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng doanh nghiệp trong nhóm được xác định liên quan đến mức độ lỗi của mỗi doanh nghiệp và được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế. Nếu

mức độ lỗi không xác định được, các doanh nghiệp phải bồi thường cho những thiệt hại với số lượng bằng nhau. Quy định này khác với quy định về bồi thường gấp 3 trong luật chống độc quyền của Mỹ.

2.1.1.3. Chế tài hình sự

Thực tiễn cho thấy, hành vi hạn chế cạnh tranh không những gây nguy hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, mà còn bóp méo thị trường, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Vì vậy, việc xử lý hình sự đối với một số hành vi hạn chế cạnh tranh là rất cần thiết để đảm bảo tính nghiêm khắc của pháp luật. Điều 94 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã quy định rằng: “Trường hợp qua điều tra phát hiện vụ việc cạnh tranh có dấu hiệu tội phạm, điều tra viên phải kiến nghị ngay với Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét chuyển hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự” [37]. Như vậy, nếu hành vi hạn chế cạnh tranh có dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Bộ luật Hình sự thì sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi đó, vụ việc sẽ được giải quyết theo tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà định tội danh và áp dụng chế tài hình sự thích hợp.

Áp dụng biện pháp hình sự là “một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm… bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức…” [36]. Trên cơ sở định hướng này, Bộ luật Hình sự năm 1985, sau đó đến Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định một số tội phạm liên quan đến cạnh tranh. Trong đó, chủ yếu là các tội vi phạm pháp luật liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả; tội lừa dối khách hàng; tội quảng cáo gian dối; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán; tội thao túng giá chứng khoán. Bộ luật hình sự không quy định trực tiếp về tội phạm đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên trường hợp các hành vi hạn chế cạnh tranh có tính chất nguy hiểm tới mức cấu thành trách nhiệm hình sự thì sẽ được áp dụng chế tài đối với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Điều 165 Bộ luật Hình sự 1999 quy định tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng đã quy định rằng: (1) Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. (2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: (a) Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; (b) Có tổ chức; (c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; (d) Gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng khác. (3) Phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. (4) Người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm [36].

Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự cũng có quy định về tội phạm trong lĩnh vực chuyên ngành, trong đó có hành vi hạn chế cạnh tranh, như tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181.c) quy định đối với người có hành vi thông đồng để thực việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo hoặc giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán mà gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, và có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Và theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, thì trách nhiệm hình sự áp dụng với cá nhân, không quy định trách nhiệm hình sự với pháp nhân. Theo đó, chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh có thể là người đại diện pháp luật cho doanh nghiệp hoặc người có thẩm quyền trong việc quyết định và thực hiện hành vi trái pháp luật.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí