Hoàn Thiện Cơ Chế Bảo Đảm Thi Hành Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại

tuy nhiên, có những chủ thể lợi dụng việc hợp tác giữa các chủ thể kinh doanh để trục lợi bất hợp pháp hoặc gây khó khăn cho đối tác. Do vậy, hành vi lợi dụng “chính sách hợp tác” trong kinh doanh hoặc theo yêu cầu của NHNN của TCTD phải được coi là hành vi CTKLM.

Thứ hai, cần mở rộng khái niệm hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng: thay vì xác định hành vi CTKLM dựa vào dấu hiệu quan trọng là “vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận”, các nhà làm luật có thể căn cứ vào dấu hiệu là hành vi vi phạm “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Hơn nữa, bản chất của hành vi CTKLM là chủ thể kinh doanh sử dụng nhiều biện pháp, hành vi trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh.

Do đó, khái niệm hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng nên quy định như sau: “Hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng là hành vi của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động ngân hàng trái với những chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp khác của TCTD, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD”.

Thứ ba, Nghị định về CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng cần phải quy định chi tiết hơn để giúp các TCTD hiểu và nắm chắc rằng hình thức cạnh tranh nào bị luật pháp cấm và được phép. Do 9 hành vi trong Điều 39 Luật cạnh tranh cũng chịu sự điều chỉnh của các luật khác, nên sẽ hiệu quả hơn nếu quy định của NHNN tham chiếu tới các nguyên tắc đã được quy định tại những luật đó. Tham khảo tới các luật khác cũng giúp đảm bảo duy trì tính đồng bộ của cả hệ thống pháp lý và tránh chồng chéo khi áp dụng các văn bản pháp lý. Chỉ nên xây dựng hệ thống các quy tắc về CTKLM khi không có hướng dẫn của bất kể luật nào hoặc trong trường hợp do các đặc thù của ngành ngân hàng. Ví dụ như:

(i) “Điều... Thông tin dễ gây hiểu nhầm:

Thông tin dễ gây hiểu nhầm gây nhầm lẫn cho khách hàng liên quan tới nhãn hiệu, khẩu hiệu kinh doanh, logo, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác với mục đích cạnh tranh đều bị cấm. Sự nhầm lẫn này được xác định theo các nguyên tắc của Luật Sở hữu Trí tuệ và các văn bản pháp lý hướng dẫn luật đó...”

(ii) Về hành vi quảng cáo nhằm CTKLM:

Liên quan tới sự so sánh các hàng hoá và dịch vụ, NHNN có thể tham khảo các nguyên tắc của Nghị định 37/2006/NĐ-CP cung cấp chi tiết hướng dẫn thực hiện Luật Thương mại về xúc tiến thương mại ngày 04/4/2006. Trong Nghị định này, các doanh nghiệp có thể sử dụng quảng cáo so sánh trong trường hợp: so sánh giữa các hàng giả và hàng thật; hoặc so sánh giữa hàng thật và hàng hoá được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quy định là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Liên quan tới quảng cáo gian dối, NHNN có thể tham chiếu quy tắc tại Điều 8 của Luật Quảng cáo 2012. Khoản 9 của Điều này định nghĩa quảng cáo gian dối là quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố.

Ngoài ra, NHNN nên đưa ra chi tiết yêu cầu về các thông tin tối thiểu mà một ngân hàng phải cung cấp trong quảng cáo về mỗi hình thức dịch vụ của ngân hàng mình. Thông tin tối thiểu nên bao gồm toàn bộ thông tin có thể ảnh hưởng tới lợi ích của khách hàng (chẳng hạn như quảng cáo về thẻ của ngân hàng cần bao gồm tất cả các thông tin về chi phí và các yêu cầu về tiền gửi tối thiểu...).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

(iii) Về hành vi khuyến mại nhằm CTKLM, NHNN nên tham khảo các nguyên tắc về xúc tiến thương mại trong Nghị định 37/2006/ND-CP quy định chi tiết việc thực hiện Luật Thương mại về xúc tiến thương mại ngày 04/4/2006. Trong Nghị định này, các quy định về khuyến mại được đề cập tại Chương II.

Thứ tư, để có hướng dẫn chi tiết hơn, để xác định xem hành vi của ngân hàng là CTKLM hay không cần căn cứ theo các nguyên tắc như sau:

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 14

(i) Đó là một hành vi cố ý. Điều này có nghĩa là ngân hàng nhận thức được rằng hành vi của ngân hàng có thể gián đoạn các doanh nghiệp khác. Trong trường hợp không có bằng chứng về sự cố ý đó, cơ quan có thẩm quyền có thể quyết định xem xét ngân hàng đó có nhận thức được hậu quả của hành vi của mình dựa trên giả thuyết rằng nếu một cá nhân bình thường trong trường hợp đó có thể nhận thức được hậu quả hay không.

(ii) Có sự gián đoạn thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác;

(iii) Có mối quan hệ nhân quả giữa sự gián đoạn trong kinh doanh và hành vi của ngân hàng. Điều này có nghĩa là sự gián đoạn này có thể là hậu quả trực tiếp của hành vi của Ngân hàng.

Thứ năm, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể như sau:

Một là, khái niệm hoạt động ngân hàng theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 Dự thảo nghị định cần tuân thủ quy định tại Luật NHNN và Luật Các TCTD vừa ban hành, không nên mở rộng bằng cách bổ sung “hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối”, vì đây là một nội dung kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nếu TCTD đã đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: (i) Nhận tiền gửi; (ii) Cấp tín dụng; (iii) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản (Khoản 12 Điều 4 Luật các TCTD và Khoản 1 Điều 6 Luật NHNN).

Hai là, khoản 3 Điều 3 Dự thảo Nghị định quy định “xử phạt vi phạm tại Nghị định này dưới đây được hiểu là xử phạt vi phạm hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng”. Cần bỏ cụm từ “dưới đây” vì không có nghĩa và chỉnh sửa như sau: “Xử phạt vi phạm tại Nghị định này được hiểu là xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng”.

Ba là, sửa đổi lại đồng bộ nội dung quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 và khoản 1, Điều 3 Dự thảo Nghị định. Bởi lẽ, điểm b khoản 1 Điều 4 quy định: “Các hành vi CTKLM khác trong hoạt động ngân hàng căn cứ theo tiêu chí xác định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định này”, song khoản 1 Điều 3 lại quy định: “Tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi canh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng tại Nghị định này dưới đây được hiểu là tổ chức và cá nhân nêu tại Điều 2 Nghị định này”.

Bốn là, Điều 6 Dự thảo Nghị định cần được quy định theo hướng cụ thể hoá, bởi lẽ, Luật Các TCTD năm 2010 không có quy định về căn cứ xử lý đối với hành vi CTKLM, nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 4 Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh là để áp dụng chung đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh nên khó có thể áp dụng để xử lý đối với hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Theo đó, nội dung điều này nên quy định theo định hướng sau đây:

“Điều 6. Căn cứ xác định mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm Khi xác định mức độ xử lý đối với các hành vi CTKLM trong hoạt

động ngân hàng, cơ quan có thẩm quyền có quyền căn cứ vào một hoặc một số yếu tố sau đây:

1. Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.

2. Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm.

3. Khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

4. Mức độ ảnh hưởng của hành vi vi phạm đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ, khả năng bảo đảm an toàn đối với hệ thống ngân hàng.

5. Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 85 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh.

Năm là, sửa đổi các quy định về thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm như sau: Bỏ quy định về hình thức xử phạt cảnh cáo tại Điều 22 và Điều 25 vì mức độ ảnh hưởng của hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng thường rất lớn nên khó có thể áp dụng biện pháp xử phạt này.

Nâng mức xử phạt vi phạm hành chính lên mức cao nhất 01 tỷ đồng và nâng thẩm quyền xử phạt tương ứng, cụ thể như sau:

(i) Tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với thanh tra viên ngân hàng đang thi hành công vụ có quyền xử phạt

10.000.000 đồng (theo Dự thảo Nghị định chỉ đến 500.000 đồng);

(ii) Chánh Thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh có quyền xử phạt tối đa 100.000.000 đồng (theo Dự thảo nghị định chỉ đến 30.000.000 đồng);

(iii) Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng có quyền xử phạt 01 tỷ đồng (theo Dự thảo nghị định chỉ đến 100.000.000 đồng);

(iv) Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh có quyền xử phạt 01 tỷ đồng (theo Dự thảo nghị định chỉ đến 100.000.000 đồng).

Sáu là, bổ sung thêm thủ tục nhận và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng. Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và xử lý hành vi này là Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng. Trong trường hợp đặc biệt, có thể phối hợp với Cục Quản lý cạnh tranh để xử lý.

3.2.1.2. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại

Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hiện nay, hoạt động ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng cũng không ít những hành vi CTKLM đang có tác động tiêu cực tới môi trường kinh doanh. Pháp luật về hành vi CTKLM của NHTM với những quy định điều chỉnh đầy đủ, chặt chẽ là rất cần thiết và việc Nhà nước - với tư cách là chủ thể quyền lực tối cao - quản lý, triển khai áp dụng những quy định đó vào thực tiễn ra sao cho hiệu quả lại càng quan trọng. Một đạo luật cho dù tốt đến đâu nhưng chưa có thiết chế thực thi thì không thể phát huy được giá trị điều chỉnh của nó. Một khi pháp luật chưa làm rõ vị trí, vai trò của các cơ quan trong bộ máy thực thi pháp luật thì cũng khó có thể thuyết phục người dân tin tưởng vào tính công minh và tính khả thi của đạo luật.

Tuy nhiên, cơ chế đảm bảo thi hành pháp luật vẫn còn tồn tại một số bất cập. Việc triển khai ban hành một số quy định tương đối chung chung, chưa bao quát chặt chẽ các hành vi CTKLM của NHTM, tình trạng buông lỏng trong quản lý vẫn còn tồn tại ở một số địa phương, việc xử lý vi phạm về CTKLM của NHTM chưa kịp thời, thiếu nghiêm minh... Công tác quản lý nhà nước về cạnh tranh nói chung và CTKLM của NHTM nói riêng còn chưa hiệu quả cũng là một trong những nguyên nhân gây ra hạn chế trong việc thực thi pháp luật. CTKLM của NHTM là một hoạt động mang tính nhạy cảm cao, do vậy, nhận thức, quan điểm khác nhau của cơ quan quản lý, các TCTD và khách hàng cũng là một rào cản không nhỏ gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, có hiệu quả đến các đối tượng tham gia cũng là yếu tố làm gia tăng vi phạm đối với hoạt động ngân hàng. Vì những lý do đó,

kiến nghị cần phải có biện pháp khắc phục những bất cập trên để từng bước hoàn thiện cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật.

Thứ nhất, cần phải nâng cao vai trò và hoàn thiện cơ chế hoạt động hiệu quả cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc triển khai các quy định của pháp luật, quản lý, giám sát hoạt động tài chính - ngân hàng nói chung và cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng, bao gồm hai cơ quan chính là Cục Quản lý cạnh tranh và Cơ quan Thanh tra giám sát của NHNN.

Cục Quản lý cạnh tranh là một thiết chế kinh tế đặc biệt, được xây dựng để thực thi pháp luật cạnh tranh của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, cùng với sự ra đời của Luật Cạnh tranh là sự hình thành Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Mặc dù đây là mô hình cần thiết phải có để thực thi pháp luật cạnh tranh, nhưng trong những năm qua, cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam nói chung và cụ thể là Cục Quản lý cạnh tranh đã bộc lộ nhiêu bất cập như: Quy mô và năng lực nhân sự chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng. Hình ảnh, vai trò của cơ quan này trong xã hội còn mờ nhạt; quy định quá nhiều chức năng nhiệm vụ trong khi tổ chức chưa đáp ứng được điều kiện cần thiết.

Vì vậy, trong thời gian tới, Cục Quản lý cạnh tranh cần được quan tâm tăng cường về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy, theo đó chức năng giám sát chính sách vào theo dõi tình hình cạnh tranh theo ngành cần phải được chú trọng tăng cường. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là đi liền với việc xử lý các vụ việc điển hình theo cơ chế ad-hoc, cơ quan điều tiết cạnh tranh thường tiến hành các cuộc giám sát định kỳ theo từng ngành, trước mắt tập trung vào các ngành quan trọng đối với nền kinh tế, từ đó đề xuất sửa đổi/bổ sung thể chế liên quan. Cũng theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, thẩm quyền điều tra của điều tra viên cạnh tranh gần như tương đương với điều tra viên trong lĩnh vực hình sự và cảnh sát tư pháp.

Chỉ có như vậy, cơ quan quản lý cạnh tranh mới có thể phát huy được vai trò của mình trong việc giám sát và thực thi Luật Cạnh tranh.

Đối với Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN - được coi là cơ quan chịu trách nhiệm chính việc thanh tra, giám sát các TCTD hiện nay, trong thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế như: hoạt động thanh tra giám sát vẫn chủ yếu tập trung vào rủi ro an toàn vi mô của từng TCTD, trong khi cơ sở pháp lý về thanh tra, giám sát rủi ro an toàn vĩ mô chưa được ban hành và không được thực hiện trên thực tế. Bên cạnh đó, phương pháp thanh tra giám sát chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế vì hoạt động thanh tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là các phương pháp chủ yếu trong khi thanh tra tuân thủ và khả năng giám sát từ xa nhằm phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn xử lý rủi ro còn nhiều hạn chế. Công tác giám sát hoạt động NHTM hiện mới tập trung nhiều vào giám sát mang tính định lượng, trong khi còn thiếu những nhận định mang tính định tính về mức độ rủi ro và khả năng quản trị rủi ro của NHTM. Trong nội bộ các cơ quan thanh tra giám sát, việc phối hợp cũng còn hạn chế, chưa hiệu quả. Việc phối hợp giữa cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng với NHNN chi nhánh không chặt chẽ và không hiệu quả, nhất là trong quản lý thanh tra giám sát và xử lý sai phạm của TCTD.

Vì vậy, trong thời gian tới cần hoàn thiện các cơ sở pháp lý nhằm tăng cường chức năng giám sát của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng và cải tổ cơ chế giám sát sao cho phù hợp với tình hình hoạt động thực tế của từng TCTD nói riêng và của hệ thống TCTD nói chung. Ngoài ra, cần tăng cường và phát huy vai trò của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam trong việc phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là với NHNN, Bộ Tài chính và các Sở Tài chính để đưa ra những đề xuất, kiến nghị về chính sách, cho ý kiến vào quá trình xây dựng văn bản quản lý của các cấp, ngành và các địa phương.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/10/2023