tranh thông qua việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về cạnh tranh nói chung, pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh nói riêng và tăng cường năng lực của bộ máy nhà nước về quản lý hoạt động này.
Quá trình hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
3.2.2.1. Xây dựng hệ thống chế tài đầy đủ, đồng bộ và thống nhất
Sự tác động của hành vi hạn chế cạnh tranh là lớn, dù đó là tác động theo hướng tiêu cực hay tích cực cũng đem cũng ảnh hưởng nhất định đến các doanh nghiệp, người tiêu dùng và môi trường kinh doanh. Vì vậy, cần phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh để điều tiết các hành vi hạn chế cạnh tranh. Việc hoàn thiện chế tài đối với hạn chế cạnh tranh phải được thực hiện dựa trên các nguyên tắc của pháp luật cạnh tranh, pháp luật thương mại, cũng như các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời, phải đặt trong mối quan hệ với các luật chuyên ngành khác trong lĩnh vực kinh tế, cũng như pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính... Hoàn thiện phải thống nhất, đồng bộ, tránh những mâu thuẫn, chồng chéo làm giảm hiệu quả thi hành pháp luật. Phải đảm bảo sự thống nhất của hệ thống các chế tài về mặt bên trong và mặt bên ngoài. Về mặt bên trong, phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, giáo dục đi đôi với tính răn đe, kết hợp thuyết phục và cưỡng chế. Về mặt bên ngoài, các quy định của pháp luật không được mâu thuẫn nhau, tránh sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật với nhau. Để áp dụng đúng chế tài, các căn cứ xác định chế tài cần phải rõ ràng, cụ thể để tránh việc áp dụng tùy tiện làm giảm hiệu quả của việc xử lý vi phạm.
3.2.2.2. Các chế tài phải đủ sức răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm hạn chế cạnh tranh
Hiện nay, tình trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế vẫn diễn ra phổ biến trên thị trường nước ta do việc xử lý chưa triệt để, hiệu quả thực thi chế tài còn hạn chế. Điều này một phần xuất phát từ những bất cập trong quy định về chế tài xử lý còn chồng chéo, khung xử phạt rộng, thiếu căn cứ áp dụng chế tài cụ thể… dẫn đến việc áp dụng còn khó
khăn, có sự tùy tiện. Cách giải quyết chủ yếu dưới hình thức phạt tiền, tuy nhiên mức phạt còn tương đối nhẹ.
Các chế tài cần xuất phát từ thực tế xã hội. Khi xây dựng cần đặt ra mục đích là giáo dục, phòng ngừa, răn đe, phải nghiêm khắc để không tái phạm. Các chế tài cũng không quá nặng hay quá nhẹ. Quá nặng sẽ mang tính hà khắc, trừng phạt hơn là giáo dục. Nếu quá nghiêm khắc thì sẽ gây ra sự phản ứng mạnh mẽ của người dân. Tuy nhiên, nếu quá nhẹ thì dẫn đến tình trạng không tuân thủ pháp luật, coi thường pháp luật nên ngày càng nhiều vi phạm nghiêm trọng hơn. Những quy định về các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả phải có khả năng áp dụng, xử lý linh hoạt đối với các vi phạm hành chính đa dạng xảy ra trong đời sống xã hội nhưng tránh áp dụng tùy tiện. Vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh các chế tài xử phạt hành vi hạn chế cạnh tranh, chú ý tới việc xác định mức phạt phải tương ứng với mức độ tác động tiêu cực tới thị trường, gây thiệt hại của hành vi vi phạm đảm bảo đủ sức tác động vào doanh nghiệp vi phạm để răn đe, đồng thời nâng cao ý thức chung của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực hiện các hành vi cạnh tranh. Bên cạnh quy định nghiêm khắc về chế tài, cũng cần phải lưu ý đến chính sách khoan hồng nhằm tạo điều kiện trong phát hiện, điều tra và xử lý các vi phạm hạn chế cạnh tranh vốn đã rất phức tạp, nhằm tăng hiệu quả xử lý các vi phạm trên thị trường.
3.2.2.3. Đảm bảo sự phù hợp của quy định về chế tài với thực tiễn xử lý
Các chế tài hạn chế cạnh tranh được xây dựng nhằm xử lý các vi phạm hướng tới mục đích xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, để thúc đẩy kinh tế phát triển. Vì vậy, khung pháp lý liên quan tới chế tài cũng phải đảm bảo giải quyết được các vấn đề thực tiễn cạnh tranh trên thị trường Việt Nam một cách hiệu quả. Cần phải có sự rà soát, đánh giá, tổng kết thực tiễn xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh, nhằm xác định được những bất cập, tồn tại xuất phát từ quy định chế tài, thiết chế thực thi để có giải pháp sửa đổi phù hợp. Các chế tài được xây dựng trên cơ sở khắc phục những bất cập, tồn tại trong thực tiễn xử lý, cần phải đủ sức răn đe, ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh đang diễn ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Thực Trạng Pháp Luật Và Áp Dụng Pháp Luật Về Chế Tài Xử Lý Hạn Chế Cạnh Tranh Ở Việt Nam
- Về Trình Tự, Thủ Tục Điều Tra, Xử Lý Và Khiếu Nại
- Đánh Giá Thực Tiễn Xử Lý Các Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh
- Hoàn Thiện Trình Tự, Thủ Tục Xử Lý Các Vụ Việc Hạn Chế Cạnh Tranh Thứ Nhất: Phân Định Giữa Thủ Tục Xử Lý Hành Vi Hạn Chế Cạnh Tranh Và Hành
- Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 14
- Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
3.2.2.4. Hoàn thiện chế tài hạn chế cạnh tranh cần phải đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Với việc gia nhập nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là WTO, trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu về hệ thống thiết chế pháp lý hoàn chỉnh và đủ mạnh để thiết lập một thị trường lành mạnh, bảo vệ các nguồn đầu tư hợp pháp và loại bỏ các thủ đoạn bất hợp pháp. Pháp luật về chế tài hạn chế cạnh tranh phải được hoàn thiện phù hợp với khung pháp lý của các tổ chức quốc tế mà chúng ta là thành viên. Bên cạnh đó, quá trình thực thi luật cạnh tranh, cần phải đặt trong tầm nhìn hội nhập quốc tế vì ẩn sâu quá trình hội nhập là những thách thức, đặc biệt với quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Đó là những toan tính cạnh tranh của các đối thủ nước ngoài vốn phát triển hơn về năng lực kỹ thuật, tài chính so với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, cơ chế thực thi luật cạnh tranh cần đủ mạnh để phát hiện, ngăn chặn và loại bỏ các thủ đoạn hạn chế, bóp méo thị trường.
Việc xây dựng pháp luật về chế tài dựa trên những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên áp dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử của Việt Nam để đảm bảo tính khả thi và thực hiện. Học hỏi một cách có chọn lọc từ pháp luật quốc tế, đảm bảo hệ thống chế tài xử lý nói riêng và pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh nói chung ở Việt Nam trở thành công cụ điều chỉnh có hiệu quả trong lĩnh vực này, phát huy vai trò của cạnh tranh với nền kinh tế, hạn chế những hành vi vi phạm để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, góp phần xây dựng sân chơi kinh tế tốt cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước.
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
Có thể nói chế tài xử lý vi phạm là nội dung rất quan trọng của kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh. Một trong những điều kiện đảm bảo thực hiện có hiệu quả hoạt động xử lý vi phạm là hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế tài. Để khắc phục những khiếm khuyết và hạn chế, vấn đề đặt ra là phải sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện những quy định về chế tài và trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh vi phạm.
3.3.1. Các giải pháp pháp lý
Để nâng cao hiệu quả xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh thì hoàn thiện quy định pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Việc hoàn thiện cần phải tính đến sự toàn diện, bao gồm cả hoàn thiện về mặt quy định nội dung (về căn cứ xác định hành vi, chế tài) và quy định hình thức (trình tự, thủ tục xử lý). Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, thì các giải pháp hoàn thiện pháp luật sẽ đi sâu vào đề xuất hoàn thiện các quy định về chế tài và việc áp dụng chế tài đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế.
3.3.1.1. Hoàn thiện các quy định về chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh Một là: Hoàn thiện biện pháp chế tài hành chính
(i) Cần hoàn thiện quy định về phạt tiền đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh:
Như đã phân tích, việc tính toán mức phạt tiền dựa trên doanh thu trên thị trường liên quan sẽ tương xứng với mức độ tác động, ảnh hưởng đối với môi trường cạnh tranh trên chính thị trường đó. Thêm vào đó, đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh diễn ra trong một thời gian dài thì cơ quan quản lý cạnh tranh có thể lấy tổng doanh thu trên thị trường liên quan của doanh nghiệp trong các năm mà doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm để làm căn cứ xác định mức phạt, như tối đa 3 năm liên tiếp theo pháp luật cạnh tranh của Nhật Bản [6, Điều 7]. Mặc dù, Nghị định 71/2014/NĐ-CP đã quy định xác định cách tính dựa trên doanh thu của hàng hóa, sản phẩm liên quan trong thời gian thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để quy định mới đảm bảo được tính thực thi cao, Nghị định này cần có sự điều chỉnh về cách thức quy định tại các mục 1,2,3 Chương II theo hướng dẫn chiếu cụ thể tới Điều 4 của Nghị định để quy định chế tài một cách rõ ràng, tránh gây lúng túng trong quá trình áp dụng.
Việc phạt tiền đối với mỗi doanh nghiệp có hành vi hạn chế cạnh tranh tính trên tỉ lệ phần trăm doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm dẫn đến mức phạt sẽ là không đồng đều nếu doanh nghiệp không có doanh
thu. Bởi vậy, ngoài việc quy định mức phạt tiền tối đa tính theo tỉ lệ phần trăm trên doanh thu của doanh nghiệp vi phạm Luật Cạnh tranh thì cần quy định mức phạt tiền tối thiểu (tính theo giá trị nhất định) đối với các doanh nghiệp tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm hoặc doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mà trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm chưa có doanh thu. Vấn đề này, Luật Thương mại lành mạnh của Hàn Quốc đã quy định: Trong trường hợp doanh nghiệp tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm sẽ bị phạt tiền 5% mức doanh thu quy định trong nghị định của Tổng thống, trong trường hợp doanh thu không tồn tại có thể bị phạt không quá 500 triệu won (Điều
28) hoặc nếu doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có hành vi lạm dụng vị trí của mình thì có thể bị phạt tiền không quá 3% doanh thu, trong trường hợp không có doanh thu hoặc có khó khăn trong việc tính toán doanh thu của doanh nghiệp thì có thể bị phạt tiền không quá 1 tỉ won [8, Điều 6].
Ngoài ra, pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh cũng cần đưa ra căn cứ cụ thể để xác định mức phạt tiền trong các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Như đã phân tích, việc quy định khung phạt tiền rộng như quy định của Luật Cạnh tranh và Nghị định 71/2014/NĐ-CP sẽ dẫn đến khó áp dụng và sự tùy tiện trong việc tính mức phạt. Do vậy, để đảm bảo tính minh bạch trong hoạt động xử lý vi phạm, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cần xem xét quy định một cách cụ thể về căn cứ xác định mức độ xử lý như mức độ gây hạn chế cạnh tranh, mức độ thiệt hại do hành vi gây ra, thời gian thực hiện hành vi vi phạm... trong tính toán mức phạt để cơ quan cạnh tranh có thể dễ dàng áp dụng, minh bạch hóa trong xử lý vi phạm.
(ii) Hoàn thiện các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả:
Các biện pháp phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định như hiện nay chưa mang tính thực tiễn cao. Việt Nam cần nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung các biện pháp theo hướng tăng cường phổ biến, giáo dục nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và hiệp hội về pháp luật cạnh tranh, khôi phục lại các điều kiện cạnh tranh công bằng, thực hiện các cam kết không vi phạm pháp luật cạnh tranh trong tương lai... Quan trọng hơn, do các biện
pháp này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xử lý vụ việc cạnh tranh, Việt Nam cần có cơ chế cho phép cơ quan cạnh tranh phân tích, đánh giá và đề xuất các biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng vụ việc cụ thể. Cần đa dạng hóa các biện pháp phạt bổ sung và khắc phục hậu quả, quy định theo hướng khái quát các biện pháp này trên cơ sở biện pháp hành vi và cấu trúc (như pháp luật của Mỹ và Châu Âu) tạo cơ sở cho cơ quan cạnh tranh có thể linh hoạt áp dụng biện pháp phạt bổ sung và khắc phục hậu quả phù hợp với vụ việc cụ thể.
Bên cạnh những hình thức phạt truyền thống, cũng cần lưu ý tới các cách thức khác để có thể ngăn chặn hành vi vi phạm. Một ví dụ quan trọng là nghĩa vụ phải công khai các hình phạt bởi vì thiệt hại gây ra cho uy tín của doanh nghiệp có thể là một hình thức ngăn chặn rất hữu hiệu. Một số biện pháp xử lý vi phạm mới nên được nghiên cứu và đưa vào áp dụng như: Buộc doanh nghiệp công bố quyết định xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm của họ; hoặc đăng thông cáo với nội dung do cơ quan cạnh tranh quy định trên một số tờ báo hay ấn phẩm khác theo chỉ định của cơ quan cạnh tranh; đưa nội dung quyết định xử lý vi phạm vào trong nội dung báo cáo hoạt động thường niên của doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, đối với hành vi lạm dụng vị trí vị trí độc quyền, cần cân nhắc bổ sung chế tài tái cấu trúc đối với hành vi lạm dụng vị trí độc quyền. Vì cấu trúc doanh nghiệp hình thành nên vị trí độc quyền, trường hợp doanh nghiệp tái phạm nhiều lần thì chỉ xử phạt tiền sẽ không hiệu quả, cần có biện pháp xử lý triệt để hơn. Theo đó, cần bổ sung vào điểm a, khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh và khoản 2 Điều 22 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP về biện pháp tái cấu trúc đối với các doanh nghiệp lạm dụng vị trí độc quyền.
(iii) Cần bổ sung quy định về buộc chấm dứt hành vi vi phạm:
Ở cả Mỹ và Liên minh châu Âu, yêu cầu chấm dứt vi phạm là hình thức chế tài điển hình được áp dụng bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Tòa án đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, đặc biệt đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hay lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. Tại Mỹ và EU, các điều luật đã quy định về biện pháp chế tài này thông qua sử dụng các thuật ngữ “dừng và
chấm dứt” (cease or desist) hoặc “chấm dứt hành vi phạm tội” (sin no more) để yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm các quy định của pháp luật cạnh tranh. Hay tại Luật Thương mại lành mạnh Hàn Quốc cũng quy định đình chỉ hành vi vi phạm về hạn chế cạnh tranh, Điều 5 Luật này quy định:
Nếu doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường phạm phải một trong những hành vi liệt kê tại Điều 3-2 (Cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường), Ủy ban thương mại lành mạnh có thể ra lệnh cho doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đang có hành vi vi phạm phải hạ giá, đình chỉ hành vi đó, công bố công khai việc vi phạm… [8, Điều 5].
Tại Việt Nam, mặc dù thực tiễn xử lý cho thấy một vụ việc bị phán quyết là vi phạm pháp luật chống hạn chế cạnh tranh thì phải chấm dứt vi phạm và thực hiện các chế tài theo phán quyết của Hội đồng cạnh tranh. Tuy nhiên, cần thiết quy định trong Luật Cạnh tranh để tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho cơ quan quản lý cạnh tranh áp dụng.
(iv) Về chủ thể áp dụng biện pháp chế tài:
Bổ sung quy định chế tài đối với hiệp hội thông qua quy định rõ các hoạt động bị cấm của hiệp hội cũng như các biện pháp xử lí đối với hành vi vi phạm của hiệp hội. Cần nghiên cứu quy định hình thức xử phạt phù hợp đối với hiệp hội theo hướng áp dụng mức phạt tiền cố định bởi không thể phạt tiền theo tỷ lệ phần trăm doanh thu như đối với doanh nghiệp vì hiệp hội ngành nghề là tổ chức phi lợi nhuận. Đồng thời có thể áp dụng các biện pháp phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả, chẳng hạn như đề nghị các cơ quan hữu quan rút giấy phép hoạt động, buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi quyết định của hiệp hội, buộc cam kết không được tái phạm, buộc phải học tập về pháp luật cạnh tranh và phổ biến cho các doanh nghiệp thành viên... Có thể tham khảo kinh nghiệm của một số nước điều chỉnh về vấn đề này. Ví dụ, Điều 26 Luật Thương mại lành mạnh của Hàn Quốc quy định hiệp hội không được tham gia vào các hành vi: Hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể bằng cách tham gia vào các hành vi thông đồng bị cấm; Khiến cho hoặc xúi giục các doanh nghiệp tiến hành các hành vi kinh doanh không
lành mạnh… Khi hiệp hội tham gia vào các hoạt động bị cấm của hiệp hội thì có thể bị phạt tiền không quá 500 triệu won.[8, Điều 28]
Bên cạnh đó, cần cá biệt hóa trách nhiệm hành chính đối với người quản lý doanh nghiệp trong trường hợp vi phạm về hạn chế cạnh tranh. Trên thực tế ý tưởng liên kết, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường xuất phát từ các cá nhân đứng đầu doanh nghiệp. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, chế tài hành chính đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh được quy định chủ yếu tại Nghị định số 120/2005/NĐ- CP trước đây và Nghị định số 71/2014/NĐ-CP hiện hành, trong đó biện pháp xử phạt chỉ được áp dụng đối với các doanh nghiệp vi phạm. Kinh nghiệm xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh, hầu hết nhà làm luật của một số nước trên thế giới đều cho rằng cần phải đưa ra các hình thức xử lý vi phạm hết sức nghiêm khắc, áp dụng cho cả doanh nghiệp và cá nhân vi phạm. Chế tài đối với người quản lý công ty có thể ở mức rất nhẹ như lao động công ích, nhưng nó sẽ góp phần tích cực trong việc đảm bảo tính chịu trách nhiệm trước pháp luật của người quản lý doanh nghiệp, nâng cao ý thức tôn trọng và thực thi pháp luật cạnh tranh.
Hai là: Hoàn thiện biện pháp chế tài hình sự
(i) Cần hình sự hóa các hành vi hạn chế cạnh tranh gây hậu quả nghiêm trọng Có thể thấy, chế tài hình sự dường như không được áp dụng đối với vi phạm
về hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam. Do sự dẫn chiếu một cách khá mơ hồ tại Điều 94 Luật Cạnh tranh năm 2004 và không có quy định nào về tội phạm đối với hành vi hạn chế cạnh tranh tại Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Với xu hướng hình sự hóa đối với vi phạm về hạn chế cạnh tranh trên toàn thế giới, rất nhiều quốc gia đã sửa đổi, bổ sung pháp luật cạnh tranh theo hướng áp dụng hình thức phạt tù hoặc tăng mức phạt tù đối với cá nhân vi phạm, trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Úc, New Zealand. Sự thay đổi này cho thấy, xu hướng ngày càng coi trọng việc kiểm soát và xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Việc hình sự hóa các hành vi hạn chế cạnh tranh có tác dụng ngăn chặn một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế có nguy cơ xảy ra trong tương lai, đồng thời việc tăng mức phạt kết hợp với